Thứ Sáu, 27 tháng 10, 2017

Tưởng nhớ họa sỹ Mai Văn Hiền Gặp Nhau


Trung tuần tháng 9 - 1945 tôi được điều động về Tổng cục chính trị, công tác ở Cục Tuyên huấn – nơi có tờ Sinh hoạt văn nghệ, báo Vệ quốc quân mà tôi đã gửi bài và tranh từ mặt trận Điện Biên về đó. 

Tôi bước ra một mình từ trong những khu rừng vầu, bương thân cao vút xào xạc lá cuối thu. Mũ lưới ngụy trang, với ba lô trên lưng nhẹ tênh hơn những ngày đi chiến dịch, tôi chưa nghĩ mình đã rời đơn vị chiến đấu, đã dần xa núi rừng Việt Bắc… nhưng bước đi đã thấp dần về phía Đại Từ - Thái Nguyên. 
Hỏi thăm, tới một ngôi nhà tranh sau lũy tre có cái sân gạch nhỏ, có mấy cái chum, vại hứng nước mưa từ dưới cây cau. Tôi đã gặp chính anh: họa sĩ Mai Văn Hiến. Người dáng to cao, trắng trẻo và hơi béo hơn anh em: Anh có cái mũi hơi Tây, mắt mở to, nói oang oang, vồn vã, vui vẻ.

Vừa đọc qua giấy giới thiệu, anh bỗng “A, Phạm Thanh Tâm!”. Rồi cảm tưởng luôn: - Xem tranh Điện Biên Phủ, tôi cứ ngỡ người vẽ phải là người có tuổi… hóa ra là anh bạn trẻ! Rồi anh dẫn tôi sang mấy nhà bên giới thiệu tôi với các anh Vũ Tú Nam, Vũ Cao, Thanh Tịnh, Nguyễn Đức Toàn, Nguyễn Bích, Tử Phác, Trần Dần, Lê Thanh Đức… Thật “văn kỳ thanh, bất kiến kỳ hình”.

Tôi ở luôn cùng Mai Văn Hiến trong ngôi nhà đó và ngủ chung trên một cái giường tre. Nhà chỉ có vợ chồng bác chủ nhà với cô con gái tuổi mười bảy thơ ngây, thùy mị và chân thật. Cô gái không hề e ngại trong sự săn sóc giúp đỡ chúng tôi, từ những việc vặt như đun nước pha trà, múc nước rửa bát và quấn quýt mỗi khi chúng tôi giở ký họa ra xem.

Trong lúc này tất cả mọi người, mọi nơi đều nao nức hoạt động thi hành Hiệp định Genève, Đại Từ là nơi tập kết các cơ quan Bộ Tổng tư lệnh từ trên căn cứ ATK về chuẩn bị tiếp quản Thủ đô. Kế hoạch rất nhiều, rất lớn cho ngày về lịch sử. Còn đang phải gọi tiếp các anh em văn nghệ từ các đơn vị trong toàn quân mới có đủ lực lượng làm việc. Hai đoàn văn công cũng được tập trung củng cố, chuẩn bị chương trình biểu diễn khi tiếp quản. Đưa lực lượng chuẩn bị đón cán bộ, đón đoàn quân từ miền Nam ra tập kết, đón các đồng chí, đồng bào Côn Đảo trở về…

Tuy nhiên chúng tôi cũng có thời gian cá nhân trong sự chờ đợi. Tôi giở nhật ký sửa lại mấy bài thơ đưa anh Vũ Cao, đang chuẩn bị ra tập thơ “Lòng miền Nam”, “Tiếng hát”. Tôi chưa vẽ gì ngay vì không mang theo đủ “vật liệu” trong ba lô; cũng bởi còn ngần ngại, muốn theo sát mọi hoạt động nghề nghiệp ở anh Hiến để học tập.

Thực ra hơn ba tháng qua khi từ Điện Biên trở về căn cứ, đơn vị đã tạo điều kiện cho tôi vẽ được vài bức tranh, tôi đang đà sáng tác. Nhưng sáu năm trời ở một đơn vị chiến đấu, tôi vẫn thèm có giao lưu trao đổi nghề nghiệp. Biết mình học cơ bản chưa đến nơi, đến chốn, tôi cần học hỏi để vươn lên.

 tranh son mai

Gặp nhau. 1954. Bột màu. 57x93cm

May mắn đã từng có thời gian tôi được gần gũi học các thầy: Mai Văn Nam, Lương Xuân Nhị, Bùi Xuân Phái, Lê Quốc Lộc ở Phù Lưu Chanh (1948).
 Tôi rất nhớ là các thầy vẽ rất khác nhau… điều đó đã nói cho tôi biết: Muốn nghệ thuật phong phú, tác phẩm phải toát lên cái đẹp, qua cách nhìn, sáng tạo khác nhau giữa các họa sĩ. 
Đó là bút pháp, là màu, là hình, là phong cách, thể cách (style), là cảm thụ về thẩm mỹ… Còn các vấn đề như cảm xúc nghệ thuật (hémotion artistique), các thứ isme (trường phái) và điều kiện sáng tác nữa, với bao nhiêu dấu hỏi trong đầu…

Tôi tìm ở Mai Văn Hiến những gì đây? Trong khi anh cũng sinh hoạt giản dị, ba lô cặp vẽ trên lưng đi đây đi đó cùng bộ đội – mặc dù ở cơ quan trung ương, anh có được một số điều kiện nghiên cứu làm việc hơn tôi trong kháng chiến.

Thế rồi một buổi trưa ngủ dậy, tôi thấy anh dở cuốn giấy ra, lấy một tờ trắng, căng trên tấm bảng gỗ, bảng vẽ đặt trên đất, dựa vào cột nhà. Anh lại mở cái cặp vẽ dầy đầy tài liệu ra tìm tòi, chọn lọc. Tôi quan sát, anh bắt đầu nguệch ngoạc mấy nét lớn bằng chì, rồi anh lên bột màu mấy mảng, mấy nét rất nhạt, rất mỏng. Và cứ thế anh đắp dầy lên dần dần.

Cô gái đi đâu vừa về tới cổng, anh gọi luôn.

- Này Mai, lại đây anh Hiến nhờ một chút, quan trọng lắm, mau lên! Hình như đã có một đôi lần Hiến nhờ rồi, nên không chút ngại ngần cô gái nhoẻn miệng cười, tới gần, rất ngoan ngoãn đứng mẫu theo động tác anh uốn nắn. 
Chúng tôi, và cả bác chủ nhà không hề buồn chán chút nào trong khi Hiến vẽ, vì anh rất mau miệng, vừa vẽ vừa kể chuyện vabiết “pha trò” nữa. Mai không e lệ mà cười khúc khích rất hồn nhiên.

“Gặp nhau” của đôi trai gái trên đường hình thành như vậy, chỉ mươi phút thôi. Chẳng lẽ sáng tác một bức tranh rất “lẹ” và “dễ” đến thế sao? Nhưng trên đời có những mối tình “sét đánh” mà gắn bó trăm năm. 
 Đã có nhiều sinh viên mỹ thuật học tập công phu, đỗ đạt mà không thành họa sĩ sáng tác. Có những người sáng tác rất cần cù, kỹ càng theo đúng quy phạm nhà trường mà không thành tác phẩm. “Gặp nhau” tuy được sáng tác chóng vánh nhưng là một bức tranh đẹp, có thể phân tích theo nhận thức khoa học về một sáng tác mỹ thuật.

Cũng là rất đặc biệt. Vì cái không khí lịch sử, cái tâm trạng của họa sĩ thời điểm ấy. Mai Văn Hiến đã đặt cả tình yêu nước, kháng chiến của mình hòa nhập với nhiều người mẫu thực, đời thường mà anh đã gần gũi trong suốt cuộc kháng chiến trường kỳ để rồi tập trung vào nhân vật trong tranh anh.

Từ xưa, trong nghệ thuật thế giới, người ta đã từng khen về những cái đẹp trong sự buông bút giữa chừng, “còn chưa xong” (inachevé). Những mảng màu, những nét “chưa xong” mà gợi cảm ấy, là yếu tố đặc trưng trong bức tranh “Gặp nhau”. 
Bút pháp tranh “Gặp nhau” cũng chứng tỏ tác giả đã nắm rất chắc tính năng riêng biệt của chất liệu bột mầu. Tôi còn theo dõi những bức tranh sáng tác thành công của Mai Văn Hiến về sau này (Những lời dạy bảo, Trước giờ ra thao trường, Bướm dọc đường) nhưng chẳng bao giờ thấy anh còn có thể vẽ nhanh được như thế.

Bức tranh diễn tả anh bộ đội trên đường hành quân lên tiền tuyến, bất ngờ gặp cô nông dân đi dân công - người cùng quê - cũng đi cùng một hướng. Giữa nườm nượp dòng người bộ đội, dân công giữa núi rừng. Họ là một đôi hối hả, vội vàng mà quyến luyến, cái vẻ ngỡ ngàng, bịn rịn… đủ nói lên tình cảm thân thương. 
Đó là bức tranh “Gặp nhau” đã được tặng giải nhì trong Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1954.

Ngày chúng tôi lên xe tiến về tiếp quản Hà Nội thì bức tranh “Gặp nhau” đã xong. Nhưng tôi và nhất là Mai Văn Hiến không bao giờ quên cái điểm chia tay ở Đại Từ nhiều nước mắt, cuộc chia tay sau bức “Gặp nhau”.
Nguồn internet
Chúng tôi chuyên cung cấp tranh sơn màiSơn mài , sơn mài cao cấptranh son mai.

Thứ Tư, 25 tháng 10, 2017

họa sĩ Rob Gonsalves, Tranh gây ảo giác ( phần 2 )


Robert Gonsalves được biết đến như một họa sĩ có biệt tài "đánh lừa người xem". 30 bức tranh thật mà ảo, ảo mà thật đầy ấn tượng của ông chắc chắn sẽ khiến bạn mãn nhãn và thích thú.

Robert Gonsalves là một họa sĩ người Canada nổi tiếng với những bức tranh độc đáo, ảo diệu - nơi mà sự thực và tưởng tượng chỉ cách nhau một ranh giới rất mong manh. 

Mỗi bức tranh của ông đều ẩn chứa một câu chuyện, hình ảnh này bỗng biến thành hình ảnh kia rồi lại như trở về chính nó, tất cả hòa quyện vào nhau tạo nên một thế giới thực mà ảo, ảo mà thực. 

 Người xem gần như không thể nhìn tranh của ông 1 lần, họ phải xem lại lần 2, lần 3... để thấy được sự sáng tạo và tài tình của người nghệ sĩ.

 Robert mất rất nhiều thời gian cho mỗi bức tranh đánh lừa thị giác này, mỗi năm ông chỉ vẽ khoảng 4 bức. 

Hãy cùng chiêm ngưỡng những tác phẩm độc đáo và tham gia chuyến đi đầy thú vị trong thế giới tranh vẽ ảo diệu của Robert Gonsalves nhé.

tranh_danh_lua_thi_giac_rob_gonsalves

tranh_danh_lua_thi_giac_rob_gonsalves

tranh_danh_lua_thi_giac_rob_gonsalves
tranh_danh_lua_thi_giac_rob_gonsalves
tranh_danh_lua_thi_giac_rob_gonsalves
tranh_danh_lua_thi_giac_rob_gonsalves
tranh_danh_lua_thi_giac_rob_gonsalves
tranh_danh_lua_thi_giac_rob_gonsalves
tranh_danh_lua_thi_giac_rob_gonsalves
tranh_danh_lua_thi_giac_rob_gonsalves
tranh_danh_lua_thi_giac_rob_gonsalves
tranh_danh_lua_thi_giac_rob_gonsalves
tranh_danh_lua_thi_giac_rob_gonsalves

Nguồn internet
Chúng tôi chuyên cung cấp tranh sơn màiSơn mài , sơn mài cao cấptranh son mai.

Thứ Ba, 3 tháng 10, 2017

Một tấm gương lao động sáng tạo nghệ thuật



Tô Ngọc Vân

Buổi trưa. 1943. Sơn dầu. 98x74cm


Trong lịch sử mỹ thuật cận hiện đại Việt Nam, Tô Ngọc Vân là một họa sĩ tài năng uyên bác, một cán bộ tổ chức đầy năng lực, một người thầy giỏi có ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều thế hệ nghệ sĩ và có tiếng vang đến người yêu chuộng nghệ thuật nước ngoài.

Tô Ngọc Vân sinh năm 1906 tại Hà Nội, quê gốc ở Xuân Cầu, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, tốt nghiệp khóa II, Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (1926 - 1931).

Là một người ham hiểu biết, năng động nên tuy sở trường là chất liệu sơn dầu nhưng ông cũng rất thành công cả về nề họa, khắc gỗ, tranh lụa, Sơn mài và có biệt tài trang trí, trình bày bìa sách, minh họa báo ít người sánh kịp. Ông nghiên cứu tranh dân gian Đông Hồ, Hàng Trống, ấn họa Nhật Bản, thủy mặc Trung Hoa và rất thích Matisse, Gauguin, Cézanne, Van Gogh…Nhưng ảnh hưởng đậm nhất vào nghệ thuật của ông vẫn là trường phái ấn tượng. Tô Ngọc Vân đã tìm thấy ở đó những điều cần thiết cho sự sáng tạo nghệ thuật của mình.

Tiếp thu ảnh hưởng của trường phái ấn tượng có phương pháp khoa học, sáng tạo, kết hợp hài hòa với sự tinh túy của mỹ cảm phương Đông nên những tác phẩm của ông đạt đến trình độ hoàn hảo, ổn định và đã xác lập cho mình một bản lĩnh nghệ thuật không thể nào xáo trộn với bất cứ một họa sĩ nào khác.


Thời kỳ từ 1930 đến 1937, ông say mê nghiên cứu sự chuyển hóa màu sắc, ánh sáng thiên nhiên. Những tranh phong cảnh của ông như “Ánh sáng mặt trời”, “Bụi chuối ngoài nắng”, “Trời dịu”, “Thuyền trên sông Hương”, “Vịnh Hạ Long”, “Sư sãi Cao Miên đi khất thực”…đã làm người xem đương thời phải khâm phục. 

Vào thập niên bốn mươi ông chuyển sang chuyên vẽ về đề tài thiếu nữ với thân hình tròn lẳn, mềm mại, sắc màu rực rỡ, đã thực sự làm ông nổi tiếng. Ngày nay khi xem lại những bức tranh “Buổi trưa” (1936), “Thiếu nữ ngồi” (1941, “Thiếu nữ tựa kỷ” (1941), “Thiếu nữ với hoa sen” (1943), “Thiếu nữ bên hoa huệ” (1943), “Hai thiếu nữ và em bé” (1944), vẫn làm cho chúng ta ngây ngất trước nhịp điệu, đường nét, màu sắc, ánh sáng đồng nhất hòa quyện với nhau được thể hiện với một kỹ thuật sơn dầu điêu luyện “mà ít nghệ sĩ nào sánh kịp”.

Tuy nhiên ta cũng có thể thấy toàn bộ những tác phẩm trước Cách mạng tháng Tám của ông sáng tác theo quan điểm “Cái bí quyết của nghệ thuật ở sắc với hình”. Ông say mê đi tìm cái đẹp, một “Cái đẹp trong tranh không phải là cái đẹp ngoài đời”.


Tô Ngọc Vân

Thiếu nữ và hoa sen. 1943. Sơn dầu. 35x45cm

Cách mạng tháng Tám 1945 thành công đã đánh dấu một bước ngoặt mới trong sự nghiệp sáng tác của ông. Nhận thức rõ “văn nghệ sĩ muốn tự do thì phải tham gia cách mạng” ông sáng tác những tranh cổ động “Phá xiềng”, “Việt Nam được giải phóng” đã tác động mạnh mẽ vào người xem. Năm 1946 bức sơn dầu “Bác Hồ làm việc ở Bắc Bộ phủ” được coi là đỉnh cao của nghệ thuật và là bước khởi đầu cho giai đoạn cách mạng mới của ông.

Tô Ngọc Vân

Bộ đội và công dân nghỉ trên đồi. 1953. Sơn mài. 35x45cm


Trong kháng chiến, ông đi khắp nơi, từ trung du Việt Bắc lên Tây Bắc làm trưởng đoàn văn hóa rồi phụ trách xưởng họa liên khu X, khi vẽ tranh cổ động, in tranh tuyên truyền, đóng kịch, hóa trang cho diễn viên, trang trí sân khấu, lo toan xây dựng lại trường mỹ thuật tiếp tục đào tạo thế hệ họa sĩ trẻ cho đất nước.

Sau nhiều năm hòa mình vào thực tế chiến đấu, sản xuất, thâm nhập vào đối tượng nghệ thuật mới: nông dân - công nhân - bộ đội, với một tinh thần trách nhiệm: “Nhận của nhân dân cơm áo, chúng ta phải trả lại nhân dân bằng hội họa” đã đưa lại cho Tô Ngọc Vân cảm hứng sáng tác những đề tài mới: “Hà Nội vùng lên” (sơn dầu, 1948), “Nghỉ chân bên đường” (sơn mài, 1948) “Chạy giặc trong rừng” (sơn mài, 1949) “Khi giặc đã qua (sơn mài, 1949), “Bác Hồ với thiếu nhi” (khắc gỗ, 1951)… cùng với rất nhiều tranh ký họa về cải cách ruộng đất, về những sinh hoạt của nhân dân, về Tây Bắc, về bộ đội.

Đặc biệt, nếu trước kia ông vẽ phụ nữ chỉ với quan niệm “Không có thứ nghệ thuật nào lại không có nhục cảm” thì bây giờ ông vẽ những người phụ nữ mới ở vùng giải phóng hoàn toàn khác với nét bút giản dị, tự nhiên, hiện thực, hình sắc tươi sáng, êm mát. Trong số đó có bức “Chị cốt cán” với dáng người đứng thẳng, khỏe mạnh, đeo túi dết, khuôn mặt trầm lắng toát lên tính cương trực, tin tưởng ở sức mình, được ông tâm đắc thổ lộ: “Đây là một bức tranh phụ nữ đẹp nhất của tôi từ trước tới nay”. Quan niệm về cái đẹp của họa sĩ đã thay đổi theo nhân sinh quan mới của mình.

Khát vọng “Sống, sống thêm! Sống thêm nữa với đau khổ hứng cảm của mọi người, rồi sáng tác và sáng tác với tất cả tấm lòng thiết tha yêu mến” lúc nào cũng cháy bỏng trong tâm hồn ông, thúc dục ông làm việc không biết mệt mỏi.

Ông đã hy sinh vào ngày 17 - 06 - 1954 trong một trận ném bom của máy bay giặc gần chiến trường Điện Biên Phủ với bức ký họa “Đèo Lũng Lô” còn đang dang dở. Để ghi nhớ những công lao của ông đã đóng góp cho sự nghiệp cách mạng và xây dựng nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã trao tặng ông giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

Nguồn internet

Chủ Nhật, 1 tháng 10, 2017

Nhà Sothebys Hong Kong: gần chục triệu đô-la cho 3 tranh Việt bị nghi giả


Nhà Sothebys Hong Kong: gần chục triệu đô-la cho 3 tranh Việt bị nghi giả - Ảnh 1.

So sánh tương quan chi tiết cây cối và khoảng cách giữa các nhánh cây của hai bức Phong cảnh chùa Thầy - Ảnh Nguyễn Đức Tiến

Chiều 30-9, phiên đấu giá Nghệ thuật hiện đại và đương đại đã diễn ra tại nhà Sotheby’s Hong Kong với tổng số 74 tranh, trong đó có 3 bức tranh là của họa sĩ Việt Nam.

Cập nhật trên trang web chính thức của mình, Sotheby’s thông báo cả 3 bức tranh trên đều đã được mua.

Theo đó, bức La Famille của Lê Phổ có giá lên đến 4,1 triệu đô-la Hong Kong (mức đề xuất là 2,5 triệu đô-la).

Bức tranh Sơn mài A Family of Deer in a Forest của Phạm Hậu được mua với giá 1,5 triệu đô-la Hong Kong.

Bên cạnh đó, bức Paysage của họa sĩ Nguyễn Gia Trí cũng có giá xấp xỉ 3 triệu đô-la Hong Kong.

Đáng chú ý, từ những ngày đầu công bố phiên đấu giá cho đến khi Sotheby’s tiến hành đấu giá vào chiều 30-9, cộng đồng họa sĩ Việt Nam đã liên tục xôn xao trước nghi vấn cả 3 tác phẩm trên đều là tranh giả.

Sự việc được đẩy lên cao trào khi có một nhà sưu tập nghệ thuật gửi thư cảnh báo cho nhà Sotheby’s về các bức tranh nhưng không nhận được câu trả lời cụ thể từ người đại diện.

Kể từ khi một số bức tranh Việt bán được mức giá triệu đô thì tranh giả ngày càng xuất hiện nhiều. Thêm vào đó, qua cách trả lời của nhà Sotheby’s dành cho ông Nguyễn Đức Tiến, chúng ta có thể thấy những nhà đấu giá danh tiếng đôi khi cũng rất vô trách nhiệm khi không làm rõ nguồn gốc và các chi tiết bất thường khi được yêu cầu. Điều này không chỉ gây rủi oc ho người mua mà còn nguy hại đến uy tín của mỹ thuật Việt Nam.

Ông Phạm Long chia sẻ

Ba bức tranh gồm: bức La Famille của Lê Phổ, bức A Family of Deer in a Forest của Phạm Hậu và Paysage của họa sĩ Nguyễn Gia Trí và đều có mức giá trên dưới một triệu đô-la Hong Kong.

Thế nhưng, đáng chú ý, những tác phẩm này đều lần lượt bị cộng đồng họa sĩ Việt Nam phát hiện ra điểm "bất thường".

Nhà Sothebys Hong Kong: gần chục triệu đô-la cho 3 tranh Việt bị nghi giả - Ảnh 4.

Người phụ nữ có... hai bàn tay trái trong tranh Lê Phổ - Ảnh Sotheby's

Người phụ nữ trong La Famillee có hai... bàn tay trái

Cách đây vài ngày, trên Facebook cá nhân, nhà nghiên cứu mỹ thuật Phạm Long đã đưa ra nghi vấn đối với bứcLa Famillecủa danh họa Lê Phổ.

Các chuyên gia nhà Sotheby’s nhận định bức tranh này được Lê Phổ vẽ trong giai đoạn 1938-1940 và đã thể hiện kỹ thuật vẽ tranh lụa bậc thầy của ông.

Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Phạm Long đã phát hiện ra người phụ nữ trong bức tranh có đến… hai bàn tay trái.

Nhiều họa sĩ khác cũng xác nhận chi tiết trên và cho rằng đây là một lỗi hình họa rất lớn, một họa sĩ tên tuổi như Lê Phổ khó có thể mắc phải.

Bên cạnh đó, họa sĩ Nguyễn Khắc Chinh cũng nhận định: "Ánh mắt của các nhân vật trong tranh không thật, nếu so sánh với các bức tranh khác của Lê Phổ thì kỹ thuật vẽ bứcLa Famillerất kém và thô ráp".

Để tìm hiểu nguồn gốc bứcLa Famille, nhà sưu tập và đầu tư nghệ thuật Nguyễn Đức Tiến đã lần lượt gửi 3 bức thư cho Sotheby’s Hong Kong để cảnh báo về những chi tiết trên.

Sau 8 ngày kể từ lúc gửi bức thư đầu tiên, ông Mok Kim Chuan, Giám đốc mảng nghệ thuật đương đại và hiện đại Đông Nam Á của Sotheby’s đã hồi âm ông Nguyễn Đức Tiến.

Trong thư, ông Mok khẳng định nguồn gốc của bức tranh như họ đã công bố trên catalogue nhưng lại lờ đi chi tiết "hai bàn tay trái" và cũng không nói gì đến việc sẽ xác minh lại bứcLa Famille.

Vụ việc trên đã khiến nhiều họa sĩ bức xúc và cho rằng nhà Sotheby’s thiếu trách nhiệm với phiên đấu giá của mình.

Nhà Sothebys Hong Kong: gần chục triệu đô-la cho 3 tranh Việt bị nghi giả - Ảnh 5.

Bức Phong cảnh chùa Thầy của Nguyễn Gia Trí được Sotheby's rao bán với mức giá lên đến 900.000 đô la Hong Kong - Ảnh Sotheby's

Tranh Nguyễn Gia Trí 'nhái' Hoàng Tích Chù?

Khi chuyện người phụ nữ trong bứcLa Famillecó hai bàn tay trái còn chưa hạ nhiệt thì mới đây, nhà nghiên cứu Phạm Long cùng các họa sĩ khác lại phát hiện thêm điểm đáng ngờ trong hai bức tranh còn lại của Nguyễn Gia Trí và Phạm Hậu sẽ được mở bán trong phiên cùng ngày.

Ông Phạm Long cho biết: "Sau khi tôi lên tiếng về bức tranhLa Famille,một số nhà sưu tập trong nước cũng nhờ tôi xem bứcPaysage(Phong cảnh chùa Thầy) được nhà Sotheby’s ghi là của Nguyễn Gia Trí vẽ năm 1940.

Tôi tình cờ phát hiện nhiều chi tiết của bức này giống hệt bứcPhong cảnh chùa Thầycủa Hoàng Tích Chù (vẽ năm 1944).

Qua quan sát, từ các thân cây đại, cây chuối cho đến bố cục của hai bức này đều giống nhau. Đặc biệt, chúng giống khớp nhau cả vết rách trên tầu lá chuối như được chép từ một phác thảo hay từ một tấm giấy can".

Nhận định của nhà nghiên cứu Phạm Long đã nhận được nhiều sự đồng tình.

Họa sĩ Tô Chiêm phân tích: "Kỹ thuật của người làm bứcPhong cảnh chùa Thầy(1940, được ghi là của Nguyễn Gia Trí) rất kém.

Những mảng nền son bị mài thủng lung tung, tạo ra những miếng đen có hình dạng tròn giống nhau.

Thực ra miếng bạc phủ cánh gián đó họ định mô tả con sông nhưng làm thành miếng cho dễ xử lý. Còn ở bức của cụ Hoàng Tích Chù, người xem có thể nhìn thấy cả con song men theo chân núi."

Trong khi đó, nhà sưu tập Nguyễn Đức Tiến cho rằng hai cây đại ở hai bức tranh y hệt nhau ở nhánh, cành và khoảng trống giữa các cành cây cũng trùng nhau.

Hiện bức tranh trên được nhà Sotheby’s rao bán với mức giá ước tính 700.000 - 900.000 đô la Hong Kong.

Nhà Sothebys Hong Kong: gần chục triệu đô-la cho 3 tranh Việt bị nghi giả - Ảnh 6.

Bức tranh Gia đình nai trong rừng được Sotheby's ghi là của họa sĩ Phạm Hậu - Ảnh Sotheby's

Tranh Phạm Hậu chép - giả Phạm Hậu?

Bên cạnh đó, bức tranh Sơn mài A Family of Deer in a Forest (Gia đình nai trong rừng) của họa sĩ Phạm Hậu cũng bị nghi là tranh chép, tranh giả.

Bức tranh này có mức giá 900.000 - 1.500.000 đô-la Hong Kong. Đây cũng là bức tranh có giá cao nhất của Phạm Hậu nếu được bán ra.

Thế nhưng, theo nhận định của nhà nghiên cứu Phạm Long thì bứcGia đình nai trong rừnglà sản phẩm được chắp vá từ hai bức khác cũng của Phạm Hậu.

Bức đầu tiên làDawn in the forest of the moyenne Region( có chi tiết và bố cục cây cối giống như bứcGia đình nai trong rừng), bức thứ hai làPaysage (Landscape)(có chi tiết bầy nai giống bứcGia đình nai trong rừng).

Nhà Sothebys Hong Kong: gần chục triệu đô-la cho 3 tranh Việt bị nghi giả - Ảnh 7.

So sánh các chi tiết cây cối và bầy nai trong ba bức tranh của Phạm Hậu - Ảnh do nhà nghiên cứu Phạm Long cung cấp.

Cả hai bức trên đều đã được nhà Sotheby’s Hong Kong đưa ra bán đấu giá trong các phiên trước đây.

Như vậy, cả 3 bức tranh của các danh họa Việt Nam được đưa ra bán trong phiên đấu giá Nghệ thuật hiện đại và đương đại trong chiều nay (30-9) đều vướng phải nghi án tranh giả, tranh chép. Điều này càng được dư luận quan tâm hơn khi tranh Việt chỉ là một thị trường mới nổi trên thế giới.

Cũng theo nhà nghiên cứu Phạm Long, tình trạng tranh giả ghi tên các danh họa Việt Nam tại những nhà đấu giá danh tiếng đã diễn ra từ lâu nhưng gần đây tình hình càng trở nên phức tạp.

Cả nhà nghiên cứu Phạm Long và họa sĩ Nguyễn Khắc Chinh đều cho rằng những nhà đấu giá như Sotheby’s đều có cơ chế phức tạp, muốn bảo vệ cho nền mỹ thuật Việt Nam là một việc rất khó khăn, không thể chỉ dựa vào tiếng nói của cá nhân mà cần phải có sự lên tiếng của một số tổ chức, hội đoàn.

Dù họ không can thiệp được vào chuyện kinh doanh của Sotheby’s nhưng ít nhất có thể làm nhà đấu giá này cẩn trọng hơn đối với các tác phẩm có nguồn gốc từ Việt Nam.

"Bên cạnh đó, các nhà sưu tập phải có nền tảng kiến thức và có cái nhìn trực giác đối với một tác phẩm. Họ cũng nên tham khảo ý kiến của các chuyên gia trước khi quyết định đầu tư vào một bức tranh có nguồn gốc chưa rõ ràng." họa sĩ Nguyễn Khắc Chinh khuyến cáo.

Nguồn internet