Thứ Tư, 5 tháng 7, 2017

Sơn mài khi không còn vóc


Nghệ sĩ Phi Phi Oanh trò chuyện với nhà nghiên cứu nghệ thuật Vũ Huy Thông về những thể nghiệm với nghệ thuật sơn mài, trong đó tranh sơn mài chỉ còn lại cái da mà không còn cái vóc nặng nề của nó. Trò chuyện xoay quanh các tác phẩm của Phi Phi Oanh tại triển lãm nghệ thuật đương đại Ranh giới Vô định - Undefined Boundaries diễn ra hồi tháng Ba vừa qua.

   

 Một tấm 'da sơn mài' được chiếu phóng lớn bằng máy 'Lacquerscope' trong phòng triển lãm 'Ranh giới vô định', Trung tâm Văn hóa Hàn Quốc tại Việt Nam, tháng 3/2017. Nguồn: Heritage Space và Trung tâm Văn hóa Hàn Quốc tại Việt Nam.

     
…nếu như tranh sơn mài không còn cái vóc, chỉ còn lại cái da, nghĩa là thuần túy chỉ còn lại hình ảnh, thì nó sẽ như thế nào?

Nhà nghiên cứu Vũ Huy Thông: Bạn có thể chia sẻ về cách thức làm tác phẩm trong triển lãm Ranh giới vô định?

Nghệ sĩ Phi Phi Oanh: Tranh sơn mài thường được vẽ trên một thứ vật liệu nền móng nào đó, gọi là vóc, giống như sắt-xi (chassis, nền tranh) của tranh sơn dầu. Sau khi tôi làm một số tác phẩm sơn dầu, tôi bắt đầu suy nghĩ về cái vóc nặng đó. Học về sơn dầu thời kì 100 năm trước, sự thay đổi của tranh sơn dầu cũng phản ánh sự thay đổi trong cách xem của khán giả, tôi bắt đầu suy nghĩ về cái gọi là dematerialization – tính phi vật thể, phi vật chất - bởi chúng ta ngày càng quen với cách tiếp cận và xem những hình ảnh ở dạng digital, như xem phim, ảnh. Trong khi đó, tranh sơn mài luôn luôn là da (bề mặt) của một thứ gì đó, hoặc là bát, hoặc là cốc, rương, bàn ghế, cửa…, vì vậy tạo cảm giác vô cùng nặng. Tôi đặt ra những nghi vấn về việc nếu như tranh sơn mài không còn cái vóc, chỉ còn lại cái da, nghĩa là thuần túy chỉ còn lại hình ảnh, thì nó sẽ như thế nào? Và từ đó tôi mong muốn tìm kiếm khả năng vẽ lại tranh sơn mài trên một chất liệu mỏng hoặc trong, để thử nghiệm một đặc điểm rất độc đáo của sơn ta là sự trong suốt.

Tôi bắt đầu tìm hiểu một vài quy trình vẽ trên kính, có thể bóc tách hình ảnh ra khỏi bề mặt tấm kính thành một sản phẩm giốn như lớp da có màu sắc. Hoặc tôi ép nhiều tấm kính đã vẽ vào với nhau thành dạng khối, với nguyên lý giống như trong xây dựng cao ốc. Lúc đầu, tôi vẫn thử cách vẽ truyền thống, dùng bạc, nước, mài cẩn thận hơn, làm sao để các nét vẫn đan vào được với nhau, sau đó thì ép kính. Công đoạn đầu tiên tạo ra được pure imagine (hình ảnh chân thực) của bề mặt tranh sơn mài. Nhưng vậy còn cái bóng của nó sẽ cần được xử lý như thế nào? Dùng ánh sáng mà vẫn tạo được cảm giác phóng chiếu được hình của sơn mài nặng nề như là một dạng vật chất? Tôi bắt đầu đi mua máy ảnh medium format ở chợ giời châu Âu, sau đó chế tạo lại và sử dụng đèn LED để không ảnh hưởng gì đến tranh.

Toàn bộ thiết bị giống như máy chiếu đó là bạn tự lắp ráp bằng tay?

Vâng, tôi dùng ống kính của những máy ảnh đó để lắp ráp lại thành một thiết bị mới nên mỗi cái lại mang một hình dạng kiểu cách khác nhau.

Các ống kính đó sẽ chiếu ánh sáng qua những tấm kính nhỏ mà bạn làm như là sơn mài, sau đó phóng lên một bức màn. Thế còn những hình vẽ cụ thể? Bạn vẽ thuần túy theo lối chơi màu, các lớp trong suốt với nhau như tranh trừu tượng?

Khi vẽ tranh sơn mài, tôi cố gắng không dựa vào một mẫu vẽ nào có trước. Những bức tranh sơn mài đầu tiên chỉ là một dạng thử nghiệm về ngôn ngữ hội họa. Tôi chọn trong bộ hơn 100 bức tranh sơn mài thử nghiệm đầu tiên, những bức thể hiện được ý vô định để đưa vào triển lãm lần này. Tuy nhiên, mỗi cái đều mang một dáng vẻ khác, nó cũng không đơn thuần là trừu tượng, có cái có hình, có chất cảm khác nhau.

Nhưng có vẻ là ngay khi bắt tay vào làm những bức hình đó thì bạn đã có ý tưởng phóng chiếu nó lên đúng không? Bởi vì các tấm kính bạn làm hầu hết đều ở kích thước rất nhỏ?

Vâng, tại vì ngay từ đầu khi tôi sưu tầm được khoảng mấy chục cái máy chiếu, tôi cũng nghĩ là phải làm sao cho các tấm kính vừa được với kích thước của khe máy chiếu. Tôi chọn ra 12 bức trong hơn 100 tấm kính đã làm từ những năm 2013, 2014. Những bức dùng để chiếu thì cũng không nên vẽ nhiều lớp quá vì nó sẽ không giữ được độ trong. Vì sơn mài khi mà bị mài đi, bạc hay vàng sẽ đen lại và tạo nên độ bóng như thường thấy, nhưng cũng có nghĩa màu sắc đã bị sai lệch. Tôi thấy rằng những cái chiếu được và để xem được hay nhất là những cái có được sự trong suốt của sơn thôi, không có nhiều chất lắm![1]

    

Các tấm 'da sơn mài' được thay thế hằng ngày bởi nghệ sĩ trong suốt thời gian triển lãm. Kích thước của chúng khi được phóng lên màn chiếu là 3x3m. Nguồn: Heritage Space và Trung tâm Văn hóa Hàn Quốc tại Việt Nam.
    
    Như vậy, ta có thể tạm gọi đó là một cách thể nghiệm mới với nghệ thuật sơn mài. Đó là việc thay đổi cốt của tranh, còn cách vẽ thì hầu như không đổi, và một cách khác để xem hình ảnh của nó. Thay vì người ta xem bức tranh sơn mài được vẽ và mài trên vóc như truyền thống, thì người ta sẽ xem hình ảnh của nó được chiếu thuần túy bằng ánh sáng.

Sự thay đổi không chỉ từ phía người làm sơn mài, mà còn cả từ phía người xem sơn mài. Sự định kiến trong cách hiểu và định nghĩa về sơn mài làm chúng ta khó khăn khi nghĩ về một cách hiểu nào đó khác về loại hình này, không phải chỉ như một kiểu tranh đã tồn tại trong truyền thống hay một kiểu đồ thủ công mỹ nghệ.

Hôm nay mọi người nói khá nhiều về new media, như điện ảnh hay kỹ thuật số, nhưng thực sự sơn mài cũng là một kiểu chất liệu mới, khi nó được hình thành trong cùng thời gian lịch sử với sự ra đời của ảnh chụp hay phim. Chính vì vậy tôi muốn thử nghiệm đặt chúng cạnh nhau, tương tác với nhau. Ý tưởng có thể đơn giản coi như một loại hình hội họa cổ điển khả dĩ đặt vào môi trường của phim. Ít nhất thì nó cũng tạo ra một nhận thức mới về sơn mài.

Thế còn về những bức tranh của bạn – từ đây tôi xin phép được gọi những miếng kính được sử dụng trong triển lãm Ranh giới vô định của bạn là những bức tranh – thì tính vô định của nó có lẽ được thể hiện ở chỗ những miếng mảng màu hòa vào nhau mà không có chủ định rõ ràng?

Về từ infinite – vô định, bất định, vô hạn, người ta thường hiểu theo tư duy của toán học, còn trong đời sống tôi nghĩ infinite cũng chỉ mang tính tương đối thôi. Nó tùy thuộc vào chỗ đứng của mình, khi mình dùng thân thể mình để đo mọi việc. Chẳng hạn như đối với con người, infinite có thể là hiện tượng khi cái tai không nghe được hay con mắt không thấy được, thì bây giờ ta có kính hiển vi hoặc kính viễn vọng thì ta có thể thấy được. Hoặc thông qua những khoa học khác, ta hiểu được thứ không thấy được qua mắt. Vậy thì đối với những hình ảnh quá to hoặc quá nhỏ chẳng hạn, liệu bình thường ta có thể nhìn được nếu thiếu những công cụ như thấu kính phóng đại?

Như vậy infinite hay tính vô định ở đây liên quan tới việc con người nhờ có các máy móc, thiết bị mà không ngừng vượt qua các giới hạn nào đó của chính mình, trong trường hợp này là giới hạn của thị giác. Quan trọng hơn, infinite có thể được hiểu như quá trình truy tìm bản chất của sơn mài, khi nó chỉ còn là chính nó chứ không phụ thuộc vào vóc nữa, qua đó một chất liệu tưởng như vô cùng quen thuộc, nằm trong những giới hạn chúng ta đã biết, nay trở nên vô định và hoàn toàn mới mẻ. Ngoài ra thì bạn còn có ý tưởng ẩn chứa nào khác nữa không?

    Chiếc máy chiếu sơn mài Lacquerscope có cốt hightech tại triển lãm 'Ranh giới vô định', Trung tâm Văn hóa Hàn Quốc tại Việt Nam, tháng 3/2017. Nguồn: Heritage Space và Trung tâm Văn hóa Hàn Quốc tại Việt Nam.
   
 
     
khi được sử dụng trong dạng thức này, ta không biết rằng cái tranh chính là tấm kính nhỏ, hay là hình ảnh được phóng chiếu, hay là tấm lụa nền được chiếu lên, hay là do dòng điện và ánh sáng. Có vẻ không có cái gì là sơn mài và tranh sơn mài hết.

Mỗi bức tranh đều có những câu chuyện của nó. Có một thiết bị mà ít người để ý tới trong tác phẩm của tôi, đó là một cái máy mà tôi làm từ một cái ống kính cũ đã hỏng. Tôi thiết kế lại một cái hộp cho nó, cái hộp đó cũng được vẽ bằng sơn ta. Cốt của nó tôi dùng cốt thường và cốt high-tech, giống như chất sợi carbon, sau đó ép lại bằng vật liệu tương tự dùng làm máy bay. Đây cũng là một ý mà tôi rất thích về tác phẩm. Từ xưa, sơn mài có phẩm chất làm mới lại cái cũ, làm quý những thứ rất bình thường. Rất thú vị ở cái ý là mình đi lượm rác, những thứ vô dụng để lắp lại, làm một cái áo mới cho nó bằng sơn mài. Và sau đó, nó trở thành một thứ gì đó vừa là mỹ nghệ, vừa là tượng, vừa là tranh. Đồng thời, khi được sử dụng trong dạng thức này, ta không biết rằng cái tranh chính là tấm kính nhỏ, hay là hình ảnh được phóng chiếu, hay là tấm lụa nền được chiếu lên, hay là do dòng điện và ánh sáng. Có vẻ không có cái gì là sơn mài và tranh sơn mài hết.

Bạn dự định sẽ phát triển tiếp mạch sáng tạo này như thế nào?

Sau nhiều năm làm việc với chất liệu này rồi thì bây giờ tôi mới có thể thấy đủ can đảm để xây dựng cho nó một thứ ngôn ngữ riêng. Từ năm nay tôi bắt đầu thử vẽ lại những hình ảnh theo dạng tranh biểu hiện, thành một cái hình hay thành một cái nghĩa, ngoài hình thức của nó.

Như vậy có thể nói là trong một quá trình làm việc khá dài khoảng 10 năm của Oanh ở cả Tây Ban Nha và Việt Nam thì bạn đều xoay quanh một chất liệu chính là sơn mài, đúng không? Điều gì khiến bạn thấy sơn mài lại trở nên hấp dẫn đến thế?

Đầu tiên, đó đơn giản là cái cớ để tôi trở về Việt Nam, tìm về với văn hóa Việt. Lúc đầu tôi cũng khá là thất vọng vì tưởng chừng cũng làm tương tự như sơn mài Nhật, nhưng sau khi bắt đầu làm tôi thấy rất thú vị. Nó là một kiểu chủng loại riêng mà càng tiếp cận càng thấy có cái duyên riêng.

Tôi nghĩ rằng chất liệu và quá trình làm tranh sơn mài đưa tới cho người ta rất nhiều hứng thú để thể nghiệm.

Nó còn như là một thứ gì đó rất lạ, vì nhiều điều trong lý thuyết của sơn mài vẫn còn chưa được định hình. Bảo nó là đồ thủ công mỹ nghệ cũng không đúng, mà bảo nó là sơn như sơn dầu thì cũng không đúng. Nó vừa hẹp hơn đồng thời cũng rộng hơn. Với tất cả những cái đặc tính của nó, ngay cả những người làm trong làng nghề sơn mài cũng chưa hiểu hết. Tôi thấy rất thú vị không chỉ bởi quá trình làm, mà nó còn từ cái ý nghĩa vừa rộng, vừa gợi mở của sơn mài.
  Phi Phi Oanh (1979), nghệ sĩ Thị giác và Đa phương tiện người Mỹ gốc Việt, cư trú và làm việc tại Hà Nội. Cô tốt nghiệp bằng Cử nhân Nghệ thuật của Trường Thiết kế Parsons (Parsons School of Design) năm 2002, sau đó lấy bằng Thạc sỹ chuyên ngành Nghệ thuật và Nghiên cứu từ Đại học Complutense tại Madrid (Tây Ban Nha) năm 2012. Năm 2004, Phi Phi Oanh được trao học bổng Fulbright cho quá trình quay về Việt Nam nghiên cứu và học tập về sơn mài truyền thống ở Hà Nội, thứ sau này trở thành chất liệu then chốt xuyên suốt quá trình thực hành nghệ thuật của cô. Sáng tác của Phi Phi Oanh là sự kết hợp sơn mài với các chất liệu mới và áp dụng các công nghệ, để mở rộng năng lực thị giác của sơn mài, không chỉ để soi rọi những đặc tính ẩn khuất trong lịch sử và văn hóa của chất liệu, mà còn nhằm mang đến các cơ hội đối thoại mới cho chất liệu có tính truyền thống bảo thủ này.

Nguồn internet

Thứ Hai, 3 tháng 7, 2017

Triển lãm tranh sơn mài “Thiên nhiên - hoài niệm”



Tranh của họa sĩ Nguyễn Thị Quế.     
     NDĐT- Vào 18 giờ, thứ sáu, ngày 9-6, Trung tâm Văn hóa Pháp - LEspace (24 Tràng Tiền, Hoàn Kiếm, Hà Nội) tổ chức Triển lãm tranh sơn mài Thiên nhiên - hoài niệm của ba nghệ sĩ Đặng Thu Hương, Lý Trực Sơn, Nguyễn Thị Quế.
         
     Tranh vẽ sơn mài có khởi nguyên từ các bậc thầy ở trường Mỹ thuật Đông Dương vào đầu những năm 30 của thế kỷ XX. Từ nhựa cây sơn, một thổ sản quý của thiên nhiên đất Việt, từ nghề sơn truyền thống, một nghề cổ có tuổi rất sâu trong văn hóa Việt, khi gặp gỡ với tư duy mỹ học hiện đại đến từ phương Tây, đã làm phát sinh ra hội họa sơn mài.
     Sáng tác tranh sơn mài đòi hỏi người nghệ sĩ phải có sự bền bỉ trong cảm xúc và sự kiên nhẫn trong lao động nghệ thuật. Bức tranh sơn mài được vẽ trong nhiều tháng và được hoàn thiện trong nhiều năm.
     Thiên nhiên - hoài niệm là triển lãm tranh sơn mài của ba họa sĩ Lý Trực Sơn, Đặng Thu Hương và Nguyễn Thị Quế. Họ là những người bạn đồng môn khi học ở trường Mỹ thuật Việt Nam vào đầu những năm 60 của thế kỷ XX. Từ nhiều chục năm nay, họ lặng lẽ sáng tác những tác phẩm sơn mài bằng chất liệu sơn ta trong tinh thần mà họ đã tiếp thu được từ những bậc thầy xưa. Họ tìm về chất liệu đầy thách thức này để thực hành hội họa với những lẽ riêng và những nỗi riêng của mình.
     
     
Tranh của họa sĩ Lý Trực Sơn.
     Họa sĩ Đặng Thu Hương quê gốc ở phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, là vùng đất cổ trồng loại cây sơn cho tên gọi là sơn ta. Gia đình bà trong nhiều thế hệ trước đã từng có những quả đồi trồng sơn, làm nghề khai thác loại thổ sản này.
     Tranh sáng tác của bà chỉ có một đề tài duy nhất là hoa trong tự nhiên. Về sắc độ, Đặng Thu Hương chỉ dùng mấy màu cơ bản của sơn mài truyền thống : vàng, đỏ, đen, trắng vỏ trứng, nâu cánh gián… Tranh sáng tác của bà trông nghiêm cẩn như làm lễ tôn vinh cho nghề cổ, đầy sang trọng, lộng lẫy nhưng kín đáo, âm thầm như một lời gọi nhớ về cõi xưa.
     Lý Trực Sơn là họa sĩ thuận tay trong rất nhiều chất liệu: màu nước, sơn dầu, giấy dó… Thậm chí ông còn chế những loại màu thảo mộc bằng hoa cỏ để làm hội họa. Ông tìm lại sơn mài sau một cuộc viễn du trên nhiều miền phong cách, để sáng tác một loạt tranh khổ lớn. Luôn tuân thủ những quy tắc làm màu của nghề sơn nhưng Lý Trực Sơn đã sáng tạo trong sơn mài của mình một bảng màu có sắc độ vượt ra khỏi biên giới của thẩm mỹ Á Đông (các màu xanh lá mạ, hồng cánh sen, xanh cánh chả, màu lam ngọc, màu ghi bạc…).
     Trong tranh của ông như thấp thoáng hơi thở của các bậc thầy thời tiền Phục hưng ở nước Ý. Phải chăng bố cục lạ chia tranh ra làm ba mảng sắc độ là muốn nói đến các tầng của ký ức con người và sự quyến rũ đầy tính tâm linh của sắc màu là để mong người ta nhớ lại những gì mà hiện tại đã trót bỏ quên.
     Là bạn học của Đặng Thu Hương và bạn đời của Lý Trực Sơn, họa sĩ Nguyễn Thị Quế từ lâu đã chọn cho mình một lối vẽ tranh sơn mài đơn giản mà chặt chẽ, ấn tượng. Sơn mài của Nguyễn Thị Quế là những bông hoa được sắp đặt trong bố cục tĩnh vật. Ở đây không có thiên nhiên tự nhiên mà chỉ có hội họa, không có sự phức tạp của quá khứ cũng như những ám ảnh của hồi ức mà chỉ có sự tĩnh lặng của tâm hồn.
     Bà nâng niu, tô điểm từng cánh hoa sen, công phu tỉa tót từng đường gân của tàu lá chuối, từng đám nhụy của hoa mẫu đơn. Như một người thợ làm vườn cần mẫn, họa sĩ Nguyễn Thị Quế chăm sóc bằng cái đẹp của hội họa sơn mài cho những loài hoa Việt.
     Quyến luyến với chất sơn ta đầy biểu cảm, bằng lao động nghệ thuật và bằng tư duy mỹ thuật, ba họa sĩ chọn sáng tác tranh sơn mài để thể hiện bản sắc hội họa của mình. Họ tiếp bước đường của các bậc thầy xưa khi nghĩ ra công thức cho hội họa sơn mài: nơi gặp gỡ của tinh thần phương Đông với những xúc cảm mỹ học của thế giới ngày hôm nay.
H.THU
Nguồn internet