Thứ Ba, 30 tháng 5, 2017

Triển lãm tranh trên cuốc cày, rơm rạ, nhớ Võ Xuân Huy



 Những bài báo viết về Võ Xuân Huy được bày trên con đường rơm rạ và bà con dân làng ngồi đọc rất say sưa - Ảnh: Minh Tự

  Dân làng vừa xem tranh sơn mài vừa uống chè xanh và ăn khoai sắn trong tiếng sáo trúc và đàn bầu cũng do chính người dân làng tấu lên...

Đó là triển lãm có tên Quê mạ và Huy được tổ chức từ ngày 1-5 ngay tại khu vườn nhà của họa sĩ Võ Xuân Huy ở làng Lại Đức (nguyên thủy là làng Thủy Ba, xã Vĩnh Thủy, huyện Vĩnh Linh, Quảng Trị) nhân 49 ngày mất của họa sĩ.

Họa sĩ Võ Xuân Huy (sinh năm 1970) là giảng viên Trường đại học Nghệ thuật Huế, người thành công lớn trong việc cách tân nghệ thuật sơn mài truyền thống bằng cách tạo ra một “ngữ pháp mới” cho sơn mài, cho phép sơn mài có thể làm công việc tạo hình đầy ngẫu hứng và trừu tượng của hội họa hiện đại. Ngày 15-3-2016, họa sĩ đột ngột từ trần khi sáng tạo đang tràn ngập đam mê và đầy ắp ý tưởng.

Tác giả của cuộc triển lãm rơm rạ đồng quê này là thầy giáo Võ Minh Hoàn - anh trai của họa sĩ Võ Xuân Huy. Anh Hoàn nói cho dù Huy thành người phố thị thì Huy vẫn là đứa con của làng quê. Tâm hồn Huy là đất đai, rơm rạ, sắn khoai...

Dân làng biết Huy làm họa sĩ nhưng họ chưa bao giờ xem tranh của anh. Vì vậy lần này, lần Huy vĩnh viễn về với quê nhà, gia đình muốn bày tranh cho dân làng xem, bày những bài báo do Huy viết và viết về Huy cho bà con đọc.

  Tranh sơn mài của Võ Xuân Huy được bày trên những chiếc cày do bà con nông dân trong làng mang đến - Ảnh: Minh Tự

  Cũng nhân dịp này, gia đình của họa sĩ cho ra mắt cuốn sách tưởng niệm Võ Xuân Huy có nhan đề Xuống đất gặp trời. Xuống đất gặp trời cũng là tên của một dự án nghệ thuật thị giác mà Huy đã thực hiện tại địa đạo Vịnh Mốc (Quảng Trị) một năm trước. Huy về đất đã gặp trời/Từ nơi thanh thản nói lời nhân gian - nhà thơ Lê Bá Dương từ Nha Trang gửi ra câu thơ tiễn biệt Huy.

Mấy hôm nay, dân làng kéo đến rất đông để xem tranh của Huy và tưởng niệm đứa con của làng. Ông Nguyễn Văn Hải, trưởng thôn Lại Đức, tâm tình: “Lần đầu tiên dân làng tui được xem tranh của họa sĩ, mà lại là họa sĩ của làng mình nữa thì cảm động lắm!”.

Từ TP.HCM, nhà thơ Nguyễn Duy cũng đã lặn lội về làng Lại Đức để xem triển lãm. Tác giả của câu thơ Rơm rạ ơi, ta đã trở về đây! cho biết ông rất xúc động khi thấy tranh được bày trên cuốc cày, quang gánh, rơm rạ.

Xúc động hơn nữa khi cuộc triển lãm này được dành cho người dân quê. Năm 1997, nhà thơ cũng từng triển lãm thơ trên rơm rạ, rổ rá, nơm, đó... - những vật dụng thân thiết của người nông dân. “Nên bây giờ tôi như bắt gặp lại chính mình, trong rơm rạ đồng quê. Tôi nghĩ Huy cũng đang rất xúc động như tôi” - ông nói.


  Dân làng người thì đọc thơ tặng Huy, người mang đàn, sáo đến tấu lên - Ảnh: Minh Tự


  Mỗi người viết lên vài dòng chữ tưởng niệm họa sĩ trên tờ lịch ngày Huy ra đi - Ảnh: Minh Tự

  
  Người xem ghi cảm xúc về họa sĩ tại triển lãm - Ảnh: Minh Tự


  Người nhà họa sĩ mời bà con ăn món bánh do gia đình làm để mừng triễn lãm - Ảnh: Minh Tự


  Các bài báo về họa sĩ Võ Xuân Huy - Ảnh: Minh Tự

Nguồn internet

Chủ Nhật, 28 tháng 5, 2017

Người đam mê vẽ tranh sơn mài truyền thống


Trái ngược với không khí ồn ã ở các xưởng sản xuất đồ gỗ, đồ thờ sơn son thếp vàng với các loại máy công nghiệp trong xã…, ngôi nhà nhỏ của nghệ nhân Đinh Khắc Tuyến ở giữa xóm Hùng Vương, thôn Cát Đằng thật tĩnh lặng. 

Trong nhà ông, tầng 1 bốn bề đều treo các tác phẩm tranh sơn mài mà ông tâm đắc giữ lại, tầng 2 là không gian riêng để ông thỏa sức sáng tạo vẽ tranh. Tiếp chúng tôi khi tay vẫn lem màu sơn, ông cho biết đang thực hiện những công đoạn cuối cùng để hoàn thiện bức tranh Bác Hồ. 

Bằng giọng trầm ấm, từng trải, ông tâm sự với chúng tôi về con đường đưa ông đến với nghệ thuật vẽ tranh sơn mài: Sinh năm 1954, ngay từ nhỏ, cậu bé Tuyến đã được tiếp xúc với các nghệ nhân làm những dòng sản phẩm sơn mài là hàng chắp (thủ công mỹ nghệ), hàng nét (đồ thờ) và tranh sơn mài.

 Trong đó, tranh sơn mài có sức cuốn hút đặc biệt với cậu bé Tuyến. Vốn có năng khiếu vẽ tranh, sau đó được người anh trai hướng dẫn, Tuyến đã bắt đầu vẽ những tác phẩm đầu tiên trong đời như cảnh núi non, đồng quê… Năm 1971, chàng thanh niên Đinh Khắc Tuyến lên đường nhập ngũ tại Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 1. 

Trong môi trường quân đội, anh được giao nhiệm vụ chuyên kẻ, vẽ khẩu hiệu và trang trí báo tường. Năm 1977, sau khi xuất ngũ trở về, ông xác định sẽ tiếp tục gắn bó với nghề vẽ tranh sơn mài và gia nhập HTX sơn mài Cát Đằng. Như duyên số, thời điểm này HTX đã mời một số giáo viên của Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội về bồi dưỡng chuyên môn một năm tại địa phương.

 Với kiến thức được trang bị từ nhỏ, sau khóa học ông Tuyến tiếp tục nâng cao các kỹ năng để nâng cao chất lượng trong các sáng tác của mình. Ông vẫn nhớ như in thời kỳ những năm 1980-1988 là thời kỳ hoàng kim của các sản phẩm sơn mài nói chung và tranh sơn mài nói riêng.

Nghệ nhân Đinh Khắc Tuyến bên tác phẩm bức tranh chân dung Bác Hồ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Nghệ nhân Đinh Khắc Tuyến bên tác phẩm bức tranh chân dung Bác Hồ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Thời điểm đó, HTX sơn mài Cát Đằng có tới 500 thành viên với 12 phân xưởng. Năm 1980, HTX Sơn mài Cát Đằng được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba. Năm 1992 HTX chuyển đổi thành Cty Sản xuất hàng mỹ nghệ Cát Đằng, đây cũng là thời điểm ông nghỉ làm ở HTX và nhận vẽ tranh sơn mài ở nhà.

 Chỉ tay vào đồ nghề và nguyên vật liệu được xếp ngăn nắp trên mặt bàn, nghệ nhân Đinh Khắc Tuyến giải thích cho chúng tôi từng món đồ. Theo ông, hiện nay ít người còn vẽ tranh sơn mài theo phương pháp truyền thống bởi độ phức tạp từ cách chọn nguyên liệu, đến kỹ thuật tay nghề và sự kiên nhẫn. Các nguyên vật liệu chính gồm: sơn ta, dầu trẩu, nhựa trám, mạt cưa, đất thổ… Các nguyên liệu làm cốt (vóc) như: gỗ, tre, nứa. So với các làng nghề khác trong cả nước thì chỉ có duy nhất làng nghề Cát Đằng sử dụng nguyên liệu tre, nứa để làm cốt sản phẩm. 

Vì vậy, đây cũng là đặc điểm nổi bật của làng nghề. Các vật liệu trang trí: quỳ vàng, quỳ bạc, vỏ trai, vỏ ốc, vỏ trứng... Các dụng cụ truyền thống để vẽ tranh sơn mài gồm: dụng cụ để chế biến sơn, giấy ráp, đá mài, chối khỏa, vải màn, lá mít, than từ gỗ xoan, tóc rối, dao, que sắt; bút lông mèo, thép tóc, dao kẽ… Công đoạn pha chế sơn trong vẽ tranh sơn mài rất phức tạp. Khi mua sơn ta sống về, người nghệ nhân đổ ra vầy (thúng có quét sơn) để từ 30 đến 45 ngày để sơn lắng lại rồi chia sơn làm 3 lớp: Lớp mạt dầu là lớp sơn trên cùng được sử dụng vào các công đoạn sơn then, sơn son và sơn phủ. Lớp sơn vóc là lớp sơn ở giữa, được sử dụng để làm sơn lót, sơn thí và sơn cầm. Lớp sơn đáy, sơn củ là lớp sơn phía dưới cùng, được sử dụng để trộn với mạt cưa/đất thổ dùng để gắn, bó và hom sản phẩm. Sau khi chia sơn làm ba loại thì người nghệ nhân sơn chế ra các loại sơn khác nhau. Để pha chế sơn, người nghệ nhân sử dụng các phụ liệu là dầu trẩu và rượu. 

Quy trình để làm ra sản phẩm tranh sơn mài phải trải qua các khâu: làm vóc, trang trí. Làm vóc gồm các công đoạn: phôi mộc gắn bọc vải, bó, kẹt hom, lót, thi, cầm thếp, phủ (sau mỗi công đoạn đều phải có công đoạn mài nhẵn). Trang trí: là công đoạn người nghệ nhân sẽ làm việc trên tấm vóc hoàn chỉnh gồm các bước: phác thảo bố cục, phóng lớn phác thảo, vẽ lên vóc. Sau đó nghệ nhân cắt trai, ốc, trứng gắn lên vóc rồi dùng sơn để tạo chất kết dính. Sau khi gắn xong thì phủ 1 nước sơn lên toàn bộ bề mặt sản phẩm rồi phơi khô từ 2-3 ngày và đem ra mài; rồi sơn thêm 1 đến 2 nước sơn nữa, sao cho nền sơn và vỏ trai, ốc bằng nhau. Công đoạn đi nét, nghệ nhân sử dụng sơn cánh gián pha với màu để vẽ những mảng hình ảnh, bố cục và có thể kết hợp rắc bạc vụn để tạo mảng sáng cho tranh. 

Tranh sau khi được xử lý bằng một lớp màu phủ cuối cùng, chờ khô, đem mài với giấy nhám và nước, các lớp màu và hình sẽ dần hiện ra cùng với các chi tiết. Bước cuối cùng là toát sơn và đánh bóng… Tranh sơn mài của nghệ nhân Đinh Khắc Tuyến chủ yếu thể hiện các chủ đề dân gian như: tranh tứ linh (long, ly, quy, phượng), tranh tứ thời (mai, lan, cúc, trúc), tranh phong cảnh làng quê, tranh về các di tích, thắng cảnh đẹp của đất nước; tranh chân dung của các vĩ nhân như: Bác Hồ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp... Đường nét trong tranh của ông thanh nhã và tinh xảo. Đặc biệt, tranh chân dung sơn mài của ông có đường nét chân thực và có hồn.

 Nghệ nhân Đinh Khắc Tuyến cho biết: Để làm một bức tranh sơn mài tứ quý, phải có thời gian một tháng để hoàn thành. Hiện nay số lượng người vẽ nét có tay nghề cao tại làng còn lại không nhiều, vì ngoài hoa tay thì cần đòi hỏi sự tỉ mỉ, óc sáng tạo mới có thể sáng tác các tác phẩm đẹp.

 Niềm đam mê vẽ tranh của nghệ nhân Đinh Khắc Tuyến đã tạo ra những sản phẩm tranh sơn mài độc đáo có giá trị nghệ thuật. Ông không chỉ lưu giữ tinh hoa văn hoá quê hương mà còn là người giữ lửa và truyền nghề cho thế hệ sau, góp phần bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hoá dân tộc.


Bài và ảnh: Viết Dư

Chúng tôi chuyên cung cấp các loại Sơn mài cao cấptranh sơn màisơn mài đảm bảo chất lượng cũng như uy tín đối với mọi khách hàng

Thứ Tư, 24 tháng 5, 2017

Nguyễn Thị Huệ & cái mới đầy nữ tính


Họa sĩ Nguyễn Thị Huệ sinh năm 1977, Hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam và hiện là Phó Chủ tịch Hội Mỹ thuật Thừa Thiên Huế. Nhiều năm qua, chị đã là một trong những gương mặt nữ họa sĩ tiêu biểu, năng động trong các hoạt động, đầy sức trẻ sáng tạo nghệ thuật ở Huế.

 Trải nghiệm và bộc lộ mình bằng góc nhìn của nghệ thuật thị giác qua hơn 30 triển lãm trong và ngoài nước từ những năm 90 đến nay, Nguyễn Thị Huệ được biết đến như một họa sĩ nữ đem lại làn gió mới trẻ trung, vừa sâu nặng tính truyền thống vừa rất mạnh mẽ, hiện đại trên nền nghệ thuật xưa cũ Cố đô.

 

Bức Phóng sanh - năm 2016 của họa sĩ Nguyễn Thị Huệ
 Huế là một trong những thành phố có lực lượng nữ họa sĩ khá đông đảo, có những người thành danh, như Tôn Nữ Tuyết Mai, Phạm Thị Tuyết, Tô Trần Bích Thúy, Kim Chi, Nguyễn Thị Hòa…và nối cùng mạch nguồn đó là nữ họa sĩ trẻ năng động, đa diện Nguyễn Thị Huệ với những tranh lụa gây ấn tượng thẩm mỹ tạo hình khác lạ và mạnh mẽ. Cho đến nay, nữ họa sĩ đậm đặc chất Huế này đã giành được một số giải thưởng sáng tạo mỹ thuật đáng nể, trong đó có giải B, Giải thưởng Cố đô về văn học nghệ thuật.
 Xem tranh lụa của Nguyễn Thị Huệ, ta dễ nhận ra chị không muốn dừng lại ở những nguyên lý tạo hình tranh lụa đã trở thành mẫu mực, hàn lâm lâu nay. Chị tìm những lối đi khác, với sự tìm tòi, thử nghiệm và say mê biểu tả khác nhau, nhất là tạo dựng không gian mới lạ, đầy tính khám phá, nghiên cứu về chiều sâu biểu cảm của loại tranh truyền thống đặc thù này. Hơn thế, chị cũng không cố ý trở thành người cách tân theo kiểu phá bỏ cái cũ, tạo cái mới đôi khi cực đoan mà nhiều người trẻ hay mắc phải. Chị nắm vững các nguyên lý và kỹ pháp vẽ tranh lụa, nhưng không muốn phụ thuộc vào cái cố hữu muôn thuở đó.
 Bức Phong cảnh (lụa 2008) của Huệ như là sự trình bày góc nhìn đa chiều, khung cảnh đó không còn là mặt phẳng thuần túy ước lệ mà là sự mở rộng khả năng chiếm chỗ trong không gian thực. Một cách thức tạo không gian cảm thụ khác về tranh lụa của chị là sự đan lớp ánh sáng và nền lụa lên nhau như một hộp không gian thực sự, cái khoảng không mong manh đó lâu nay chỉ có trên mặt phẳng hai chiều của tranh lụa, thì giờ đây mở rộng hơn, lung linh, nền nã và bí ẩn trong cái sự mờ ảo thực - hư khiến người xem muốn đi vào bên trong sự hữu hình đó để chiêm cảm, khám phá. Cái hay ở đây là chị vẫn sử dụng, tích hợp hình qua một vài điểm nhấn chính, hướng chính, vì vậy thoạt nhìn như không có thay đổi gì cả, nhưng chúng níu kéo người xem và làm cho họ chơi vơi trong không gian trở nên ảo một cách lý thú và có ấn tượng thị giác đầy thu hút.
 Xem tranh lụa của chị vào thời kỳ đầu khi mới tạo không gian lớp lụa nhiều nền đan xen, cũng đã làm cho nhiều người khó quên về ánh sắc vàng lay động trong ánh sáng thật chiếu ngược. Sau này chị nhấn sâu hơn vào sự biểu tả ánh sáng, không gian và tạo nên cảm giác huyền bí của không gian sâu lắng đó khiến ta nhớ lại một nghệ sĩ phương Tây từng nói giá trị của nghệ thuật đôi khi là: The shock of the new (Cú sốc của cái mới). Quả thật, không ít đồng nghiệp và công chúng yêu nghệ thuật lần đầu xem những bức tranh lụa trình bày theo dạng hộp trong không gian của chị rất ngạc nhiên trước sự táo bạo, mở rộng này là từ sự cảm nhận của một họa sĩ nữ người Huế.
 
 
Bức phong cảnh - 2015 của họa sĩ Nguyễn Thị Huệ.
 Từ cách xử lý, phối hợp lớp mảng nền khác nhau, chị lại đơn giản hóa bằng các hình ảnh đơn tuyến dưới sự đặt để tranh theo sự chủ ý về ánh sáng nào đó để làm đọng lại ký ức tạo hình sâu lắng và cần có, tạo điểm nhấn trong tranh. Như những tranh chị vẽ bóng các nhà sư trên nền màu đậm phẳng theo kiểu tranh cắt giấy, nhưng lại xen các lớp không gian hư ảo nên chúng trở nên sống động và giàu xúc cảm. Cái bóng đó phải được chắt lọc, cắt gọt và nung nấu bởi những ý tưởng giàu xúc cảm của chị, vì vậy bóng như là một nguyên lý lấy ý tả tình chứ không phải là lát cắt đơn điệu của một cái bóng từ ánh đèn chiếu. Điều này cũng không hẳn là thế mạnh của chị, nhưng đến loạt tranh chị diễn tả những bàn chân trần của các nhà sư trên con đường nhỏ, bóng các nhà sư như phản chiếu, hòa tan trong làn ánh sáng đầy sương khói, mộng mị trong bức Dương gian (lụa 2010) thì công chúng nhận ra chị cũng rất triết lý khi xoáy sâu vào bí ẩn của đạo và đời, trong sự tưởng tượng nhất định về chốn nhân gian vời vợi bao nỗi niềm và con người trở nên mong manh, bé nhỏ biết bao trước vạn vật. Đây cũng là một bức tranh hiếm hoi về đề tài Phật giáo được trưng bày trong Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc 2010 tại Hà Nội.
 Tranh lụa của họa sĩ Nguyễn Thị Huệ giờ đây là một nét mới trong đời sống mỹ thuật đương đại ở Huế, một phong cách riêng. Nữ họa sĩ Huế luôn tìm tòi, khám phá không ngừng và người ta nhìn thấy nỗi đam mê trong tìm kiếm sáng tạo nghệ thuật không biết mệt mỏi đó, chị đã chạm đến những giá trị thực sự của nghệ thuật tranh lụa, làm cho tranh lụa được mở rộng hơn về ngôn ngữ biểu đạt và dĩ nhiên, trong đó thấm đượm xúc cảm nhẹ nhàng, trong sáng và sâu lắng của một người nữ họa sĩ Huế đầy cá tính.

Nguồn internet.

Chúng tôi chuyên cung cấp các loại Sơn mài cao cấptranh sơn màisơn mài đảm bảo chất lượng cũng như uy tín đối với mọi khách hàng

Thứ Hai, 22 tháng 5, 2017

Công Văn Trung - Tên tuổi lớn của nghệ thuật tạo hình Việt Nam


Công Văn Trung (16 tháng 9 năm 1907 tại Hà Nội – 17 tháng 5 năm 2003 tại Hà Nội) sinh tại xã Phú Thượng, huyện Từ Liêm (nay là phường Phú Thượng, quận Tây Hồ) trong một gia đình trung lưu. Ông là học viên khoá I của trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.

Năm 1925, trong cuộc thi đầu tiên của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, Công Văn Trung thay vì nộp hồ sơ tại Hà Nội, lại gửi hồ sơ sang tận Paris. Đến gần ngày thi cuối, hồ sơ của ông mới quay trở lại Hà Nội, đến tay ban giám khảo. Hoạ sĩ Nam Sơn, chủ khảo cuộc thi, đã đặc cách cho ông thi ngày cuối và thi các môn còn lại một mình do chính Nam Sơn coi thi. Công Văn Trung đỗ thứ năm trong mười thí sinh trúng tuyển trong hơn 500 thí sinh. Nhớ ơn hoạ sư Nam Sơn, năm 2003 ông đã phát biểu: "Không có thầy Nam Sơn thì không có họa sĩ Công Văn Trung ngày nay. Mười người trúng tuyển thì hai người học kiến trúc, còn lại tám người học hội hoạ. Qua năm năm học, hai người bỏ ngang. Công Văn Trung tốt nghiệp hạng năm trong sáu sinh viên, bằng thứ hạng với khi thi vào. Cả sáu người sau này đều là những tên tuổi lớn của nền nghệ thuật tạo hình Việt Nam.

Cong-van-trung-1

Bút tích của họa sĩ Công Văn Trung

Ngay khi còn là sinh viên năm thứ ba, Công Văn Trung đã được Học viện Viễn đông Bác Cổ sang trường Mỹ thuật Đông Dương xin về làm việc, làm công việc đo đạc khảo cổ. Tại đây ông là người giỏi bậc nhất môn vẽ viễn cận. Ông là hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam từ khi thành lập hội (năm 1957). Công Văn Trung dạy ở trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội một thời gian dài từ năm 1957, rồi sau này dạy ở Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội và nghỉ hưu ở đó. Nhiều học trò của ông trở thành hoạ sĩ danh tiếng như Đường Ngọc Cảnh, Kim Bạch, Lê Thiệp, Vũ Giáng Hương, Trần Khánh Chương...

cong-van-trung-2

Công Văn Trung - Hoa dại đỏ Chùa Thầy

Những tác phẩm của Công Văn Trung đậm gam màu nâu, thô mộc, thôn dã rất đặc thù dân tộc. Những tác phẩm tiêu biểu có Tháp chùa Bảo Minh, Bình minh đất nước, Mỏ Tĩnh Túc, Tham quan di tích lịch sử, Hoa đại đỏ chùa Thầy. Tác phẩm sơn khắc Phong cảnh Sài Sơn đã được Huy chương vàng ở triển lãm toàn quốc năm 1990 khi ông đã 83 tuổi. Công trình nghiên cứu từ hơn 30 năm Truyền thống nghệ thuật dân tộc Việt Nam được họa sĩ hoàn tất trước lúc qua đời.

cong-van-trung-3

Tác phẩm Phong cảnh Si Sơn

Với tài năng và cống hiến cho đất nước những tác phẩm quý giá, ông đã được trao tặng Huân chương Lao động hạng nhì của Nhà nước cùng lượt với hai danh họa thuộc sinh viên Mỹ thuật Đông Dương khóa sau là lão họa sĩ Lương Xuân Nhị và nhà điêu khắc Phạm Gia Giang. Năm 2003, ông là người cuối cùng trong số những học viên khoá đầu tiên Trường Mỹ thuật Đông Dương qua đời.

Nguồn internet.

Chúng tôi chuyên cung cấp các loại Sơn mài cao cấptranh sơn màisơn mài đảm bảo chất lượng cũng như uy tín đối với mọi khách hàng

Thứ Tư, 17 tháng 5, 2017

Nhạt nhòa sơn mài


Thiếu một chiến lược bảo tồn và phát triển ngành sơn Việt Nam bao quát từ khâu quy hoạch, trồng trọt đến triển lãm, bảo tàng; sơn mài đang rơi vào tình cảnh như hiện nay là phổ cập về lượng nhưng nhạt nhòa về chất.

Chạm giữa rừng sơn Màu xưa bóng lộng và dự cảm

t1wwVvV7.jpg

Vườn xuân Trung Nam Bắc, sơn mài truyền thống của Nguyễn Gia Trí

Ra đời kể từ khi các sinh viên Trường Mỹ thuật Đông Dương (Hà Nội) tiến hành thể nghiệm sơn ta vào sáng tác tranh sơn mài theo phương pháp tạo hình châu Âu (trong khoảng năm 1930-1931), sơn mài là sự kết hợp giữa chất liệu sơn ta với phương pháp tạo hình mà trong quá trình thực hiện có việc mài nhiều lần với nước để tạo các lớp màu, lấy mặt phẳng; nhựa sơn chín được pha thêm nhựa thông nhằm tạo độ giòn để có thể mài.

Sơn ta là sơn được điều chế từ nhựa cây sơn (Rhus succedanea) mọc chủ yếu ở Phú Thọ dùng để sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, tượng thờ, hoành phi, câu đối, trang trí đình chùa, cung điện.

Trong bài thuyết trình trước Hội nghị văn hóa toàn quốc diễn ra ngày 19-7-1948 (Việt Bắc), họa sĩ Tô Ngọc Vân (1906-1954) cho rằng:

...Sơn ta có sắc phẩm, có phẩm chất đủ năng lực để làm tan các mâu thuẫn giữa hình, sắc, chất, mâu thuẫn đã có từ non một thế kỷ. Sơn mài, một ngành hội họa mới do tay người Việt Nam dựng lên, sẽ đem lại cho thế giới hội họa hình, sắc, chất đang mong đợi và sự điều hòa những khuynh hướng trái ngược nhau và Không những sơn mài đã là một ngành hội họa, sơn mài còn là một ngành hội họa đủ năng lực cách mạng hội họa thế giới hiện nay đang mắc nghẽn trong một con đường cụt không có lối thoát.

Quả thật vào giai đoạn đó những sáng tác sơn mài sáng chói của Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Tư Nghiêm, Trần Văn Cẩn... đáng để Tô Ngọc Vân ca ngợi và dự báo về tương lai của sơn mài Việt Nam. Nhưng hiện nay sơn mài có đúng như kỳ vọng của cố danh họa hay không?

Mới đây J.F.Hubert - chuyên gia về nghệ thuật Việt Nam - còn nhận định sơn mài có sự đi xuống, thay đổi chất liệu và rút ngắn các công đoạn trong quá trình sáng tác (Tuổi Trẻ Cuối Tuần, số đề ngày 17-4-2013).

Thu hẹp rừng sơn, làng nghề chuyển hướng

Sự ra đời của nhóm họa sĩ sơn ta (Hà Nội) thật đáng khích lệ, nhưng cũng chỉ là con số ít ỏi (38 người) trong đội ngũ đông đảo các họa sĩ vẽ sơn mài công nghiệp hiện nay. Tại TP Huế và TP.HCM, số họa sĩ vẽ sơn ta chuyên nghiệp cũng chỉ đếm được trên đầu bàn tay.

Có thể thấy đến nay, nhờ sự sáng tác đông đảo của các họa sĩ chuyên, không chuyên về sơn mài, đặc biệt là truyền thông đa phương tiện đã khiến sơn mài ngày càng phổ biến rộng rãi, song cũng chính vì thế thuật ngữ này dễ bị lạm dụng và trong nhiều trường hợp làm mất đi giá trị đích thực của sơn mài.

Chính vì sự đa dạng đó mà có nhiều thuật ngữ khác nhau ra đời như sơn ta, sơn truyền thống để chỉ sơn mài được làm từ sơn ta; sơn mài mới, sơn mài Nhật, sơn mài hạt điều để chỉ các loại tranh sáng tác từ sơn công nghiệp, sơn hạt điều, mực in.

Hiện nay về cơ bản có thể nói sơn mài công nghiệp đang thay thế dần sơn mài ta trên mọi lĩnh vực từ sáng tác tranh đến trùng tu, phục chế. Cho dù chúng ta đã có hai hội thảo về sơn ta, sơn mài, nhưng phần lớn là ca ngợi vẻ đẹp lộng lẫy vàng son của chất liệu, lịch sử về các làng nghề và nghệ nhân chứ chưa đi vào phân tích thực trạng sơn mài hiện nay và định hướng phát triển.

Sơn ta vừa có thể dùng để chế tác sản phẩm mỹ nghệ, sản phẩm trang trí ứng dụng, lại vừa có thể dùng làm chất liệu sáng tác hội họa. Thật là một chất liệu kỳ diệu, phù hợp với xu thế mix technique hiện nay. Đáng tiếc là nguồn sơn hiện nay ngày càng giảm cả về số lượng và chất lượng.

Khảo sát thực địa, chúng tôi nhận thấy nhiều rừng sơn đã bị thu hẹp về diện tích hoặc chuyển qua sử dụng cho mục đích khác. Sự suy giảm này có mối liên hệ với chuyển hướng các làng nghề từ sử dụng sơn ta sang sử dụng sơn hạt điều, sơn công nghiệp khác như làng Hạ Thái, Chuyên Mỹ (Hà Nội), Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), đồ nét và cuống ghép nứa Cát Đằng (Nam Định), hàng tráp quả chợ Bằng (Hà Đông, Hà Nội) đồ khảm làng Chuôn, làng Tre (Phú Xuyên, Hà Nội)...

Các làng nghề này xưa là quê hương nuôi dưỡng, bảo tồn và phát triển tinh hoa kỹ thuật và thẩm mỹ dân tộc, nay đã cơ bản từ bỏ sơn ta truyền thống và chuyển qua sơn công nghiệp với công nghệ mài, phun, xịt, phủ bóng bằng máy.

Sinh viên học chuyên ngành sơn mài tại các trường mỹ thuật trong cả nước ở bậc đại học đều có học về quy trình điều chế sơn, song do vật tư đắt đỏ và lại phụ thuộc vào nguồn cung cấp duy nhất từ Hà Nội nên đa số chỉ được học lý thuyết, hiếm khi thực hành. Các học phần vẽ sáng tác, thiết kế về sau đều dùng sơn đã được chế biến.
Điều mà giáo viên và sinh viên quan tâm nhất chỉ là bố cục và chủ đề tác phẩm. Sinh viên đi thực tế thì chủ yếu là theo đề tài sáng tác. Thường họ theo những đề tài nông thôn, miền núi, ngư nghiệp, công nghiệp, chợ... Thiếu hẳn mảng thực tế điền dã về các vùng nguyên liệu, các làng nghề sơn mài, các công trình mỹ thuật cổ có nhiều dấu ấn sơn ta.

Khi đã ra trường thành họa sĩ tự do thì vì lý do thời gian, sự tiện dụng hoặc sự khó khăn trong khâu điều chế nên họ hầu như phụ thuộc vào sơn thành phẩm trên thị trường, phó thác chất lượng sơn hoàn toàn cho nhà cung cấp. Họ coi nhựa sơn đã pha chế như nó đã vốn vậy, không quan tâm nó từ đâu đến, nó được pha chế như thế nào và hiện trạng nó hiện nay ra sao.

Sơn sống, chín (cánh gián, sơn then) phục vụ cho sáng tác sơn mài, hiện nay chỉ bày bán chủ yếu ở Hà Nội và một vài địa chỉ nhỏ lẻ không đáng kể khác. Các địa chỉ cung cấp trong cả nước, nếu có, đều là trung gian ở các địa chỉ này. Chất lượng sơn hoàn toàn phụ thuộc vào cảm quan, may nhờ rủi chịu, không có bất cứ tiêu chí nào.

MLsnDLqb.jpg

Múa vòng - 1980 của Nguyễn Sáng

Nhạt nhòa sơn mài

Phóng toThiếu nữ với mùa xuân - 1975 của Nguyễn Tiến Chung

Manh mún ngành sơn

Một thực tế là phần lớn các họa sĩ ba miền hiện nay đều không dùng sơn ta để vẽ tranh sơn mài mà thay vào đó là sơn điều, sơn công nghiệp từ Nhật Bản quen gọi là sơn Nhật, mực in lưới (in lụa). Quy trình tạo hình giống với sơn ta nhưng đã giản lược một số công đoạn.

Sơn điều kết hợp với bột đá dùng để làm vóc, sơn Nhật, mực in dùng để vẽ. Một số khác dùng kết hợp giữa sơn ta và sơn công nghiệp theo từng công đoạn. Vóc làm bằng sơn ta hiện nay gần như không có, trừ phi là họa sĩ tự làm hoặc đặt làm. Vì thế, hiện nay rất hiếm họa sĩ vẽ tranh bằng chất liệu sơn ta hoàn toàn.

Nhìn tổng thể ngành sơn (sơn ta, sơn mài) Việt Nam cũng khá đủ các khâu, các nhân tố như khai thác nhựa từ cây sơn, trồng cây sơn, người thợ làm sơn, giảng dạy, sáng tác, triển lãm. Song sự đồng bộ và phát triển toàn diện mang tính hệ thống thì không.

Có thể nói về sự manh mún, đứt đoạn, thiếu mối liên hệ qua lại. Việc nghiên cứu cây sơn, nhựa sơn còn quá sơ sài, đến nay chủ yếu dựa vào các tài tiệu của người Pháp để lại từ đầu thế kỷ 20. Khai thác và chế biến về cơ bản vẫn như từ trước đến nay, song chất lượng nhựa sơn kém hơn do cây sơn đã bị thoái hóa, đất bạc màu, khai thác không đúng tuổi, quá tuổi.

Thiếu một chiến lược bảo tồn và phát triển ngành sơn Việt Nam bao quát từ khâu quy hoạch, trồng trọt đến triển lãm, bảo tàng; sơn mài đang rơi vào tình cảnh như hiện nay là phổ cập về lượng nhưng nhạt nhòa về chất.

Thứ Hai, 15 tháng 5, 2017

Văn Thạnh phá tranh sơn mài


Văn Thạnh vẫn vẽ tranh sơn mài đúng lối truyền thống, nhưng kèm theo đó là loạt tác phẩm sơn mài phá cách rất mới. Đó là tranh sơn mài không mài nhẵn nữa, mà để tự nhiên, gồ ghề với những đường gân, rãnh xù xì gây hiệu ứng lạ mắt.

 


Họa sĩ Văn Thạnh sinh năm 1981 trong một gia đình thuần nông có sáu anh chị em ở tỉnh Sóc Trăng, tốt nghiệp ngành mỹ thuật Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Sóc Trăng năm 2002, đồng thời học bổ túc văn hóa để hoàn thành chương trình trung học. Năm 30 tuổi, anh mới tốt nghiệp Trường Đại học Mỹ thuật TP.HCM.          Một số tác phẩm khác, Văn Thạnh lại thử một lối đi ngược với cha anh bằng cách vẽ sơn mài trên vải. Thêm vào đó, họa sĩ này còn dày công pha chế sơn, hóa chất phụ gia để sau một thời gian, màu sơn rạn nứt tự nhiên tạo nên hoa văn, đường nét rất đẹp.

Văn Thạnh cho biết: "Quá lạm dụng kỹ thuật, tác phẩm sẽ trở nên thô ráp, khô cứng. Nên tôi vận dụng kỹ thuật nương theo một hành lang thuật ngữ đúng nghĩa, ảo diệu nhất, tác phẩm mỹ thuật sẽ thăng hoa, và từ đó một không gian ngôn ngữ riêng biệt sẽ phát sinh".

40 tác phẩm sơn mài, acrylic của Văn Thạnh vẽ phong cảnh, rừng cây, bến nước, con thuyền..., hiện ra nửa quen nửa lạ. Lạ ở đây phần lớn nhờ hiệu ứng từ cách phối màu đã pha chế hóa chất của họa sĩ. Pha màu có công thức, tạo hiệu ứng có tính toán, nhưng tất cả lại tạo nên nét đẹp tự nhiên như vô tình.

 

"Văn Thạnh có thái độ lao động nghệ thuật nghiêm túc, chịu khó tìm tòi, pha chế chất liệu để làm tranh có nét mới, lạ, độc đáo hơn. Tranh của Văn Thạnh chuyển tải được hơi thở cuộc sống và sử dụng nhiều chất liệu cùng lúc. Ở Việt Nam, những họa sĩ sử dụng chất liệu tốt như Văn Thạnh không nhiều", nhà phê bình mỹ thuật Phạm Quốc Hùng đánh giá.

Để có được 40 tác phẩm làm triển lãm cá nhân "Sự sống" đầu tay lần này, Văn Thạnh mất hơn một năm chuẩn bị, chọn lọc từ hàng trăm bức tranh anh đã vẽ trong thời gian dài. Thậm chí, Thạnh đã phải nhờ cậy gia đình ở Sóc Trăng bán đất để có chi phí thực hiện những giấc mơ hết sức tốn kém với hội họa.

Bà Ngọc Yến, chủ phòng tranh Art Gallery, một trong những người giúp Văn Thạnh thực hiện cuộc triển lãm, cho biết: "Tôi cảm mến con người chân thật của Văn Thạnh. tranh sơn mài của anh thu hút tôi mạnh mẽ. Những ngôi nhà, hàng cây nghiêng đổ, bông hoa, bến nước, con thuyền đạt được hiệu ứng màu sắc, hình ảnh ngoài ý muốn, đòi hỏi kỹ thuật và cách sử dụng màu nhuần nhuyễn".


Hồi ức


Thu sớm


Đức tin

 

Ban nhạc

 

 Ký ức ấu thơ

Nguồn internet

       

Thứ Năm, 11 tháng 5, 2017

Độc đáo tranh sơn mài hầu đồng “Giá thánh”

Doc dao tranh son mai hau dong “Gia thanh” - Anh 1

Không vì việc vào tháng 12/2016 UNESCO vinh danh Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại cho Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt mới khiến Trần Tuấn Long quan tâm tới không gian của Đạo Mẫu trong hội họa của mình, mà gần 20 năm qua, anh đã bị hút hồn bởi những khoảnh khắc mê hồn của sắc diện các giá hầu đồng.

Trong đời sống dân gian ở Việt Nam, nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Thờ Mẫu được thừa nhận có phần muộn màng, nhưng ở đó, người ta lại thấy sự hòa quyện những yếu tố văn hóa như tâm linh, nghệ thuật diễn xướng, âm nhạc, phục trang, installation art…

Doc dao tranh son mai hau dong “Gia thanh” - Anh 2
Doc dao tranh son mai hau dong “Gia thanh” - Anh 3
Doc dao tranh son mai hau dong “Gia thanh” - Anh 4
Doc dao tranh son mai hau dong “Gia thanh” - Anh 5

Ở nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Thờ Mẫu, sự thăng hoa đã đến một cách thực tự nhiên vào con người qua các vũ điệu, nghi lễ cúng tế, trong tiếng nhạc và những bộ trang phục sặc sỡ, tất cả những điều đó tạo nên sức cuốn hút diệu kỳ của tín ngưỡng dân gian này với con người.

Chính sự thăng hoa, cảm xúc nâng bản thể lên tầm mức thánh thần đó đã được họa sĩ Trần Tuấn Long nắm bắt để đưa vào tác phẩm của mình, trong 26 tác phẩm sơn mài khổ lớn. Bức đầu tiên anh vẽ từ năm 1998. Có một điều oái oăm là, vào năm 2005, một phần của bộ tranh này được anh gửi tham dự Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc, nhưng đã bị loại từ vòng gửi xe - vì lý do vẽ đề tài mê tín dị đoan. Nhưng Tuấn Long không nản chí, vẫn mê đắm tình yêu với nghệ thuật của tín ngưỡng thờ Mẫu và cứ lặng lẽ sáng tác, thủy chung với đề tài này.

Doc dao tranh son mai hau dong “Gia thanh” - Anh 6
Doc dao tranh son mai hau dong “Gia thanh” - Anh 7

Nét chung dễ thấy ở các tác phẩm của Tuấn Long một thế giới tâm linh đa sắc và có phần hoang dại của người Việt. Mỗi bức tranh sơn mài đều bập bùng sức nóng của lửa. Những ngọn lửa thần thánh được bao quanh nhân vật, truyền dẫn tới người yêu mỹ thuật một hấp lực nhiệt năng riêng lạ, khơi lên lòng nhiệt thành tín ngưỡng thuần Việt, chứ không dị đoan.

Họa sĩ Trần Tuấn Long sinh năm 1967, tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật Việt Nam năm 1995, chuyên sáng tác chất liệu sơn mài cổ truyền, đã triển lãm cá nhân và tham gia triển lãm nhóm tại Việt Nam, Đài Loan, Hàn Quốc, Đức….Triển lãm Giá thánh sẽ kéo dài tới hết ngày 15/3.
theo Lê Quang Vinh

Thứ Ba, 9 tháng 5, 2017

Ngắm những bức vẽ về biển đảo quê hương


 Đây là triển lãm mang ý nghĩa chính trị quan trọng nhằm nâng cao lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, ý thức giữ gìn, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ trong mỗi người dân Việt Nam. 



Một góc triển lãm tranh sơn mài Biên giới Biển đảo quê hương  Bằng những tác phẩm mỹ thuật có giá trị nghệ thuật cao, các họa sĩ đã miêu tả thiên nhiên, con người, và những sinh hoạt đời sống của các chiến sĩ biên phòng nơi biên giới, hải đảo. Triển lãm này là hoạt động thiết thực, góp phần động viên cán bộ, chiến sĩ biên phòng và nhân dân các dân tộc vùng biên giới làm tốt sự nghiệp bảo vệ chủ quyền an ninh, biên giới biển đảo của tổ quốc.      

Để có cuộc triển lãm này, Hội Mỹ thuật Hà Nội đã tổ chức 8 trại sáng tác và các chuyến đi thực tế: Móng Cái, Hà Tĩnh, Huế, Thanh Hóa, Hòn Dấu (Hải Phòng), Tam Đảo… đưa các họa sĩ đến các đơn vị Bộ đội biên phòng, ra đảo Trường Sa… cùng trải nghiệm thực tế cuộc sống và chia sẻ sự gian khổ với những chiến sĩ biên phòng và lính đảo đang ngày đêm canh giữ và bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc Việt Nam, tạo điều kiện để các họa sĩ lấy tài liệu, vẽ phác thảo, và sáng tạo nên những tác phẩm mới trưng bày trong triển lãm.

TTVH Online xin giới thiệu những tác phấm tiêu biểu.  

 
     

Chim hải âu và lính biển. Tranh bột màu của Nguyễn Thái Hùng


   

Tổ Quốc trên vùng đảo nhỏ. Tranh acrylic của Nguyễn Hải Nghiêm 

      
    
        

Biển Tĩnh Gia Thanh Hoá. tranh sơn mài của Phạm Ngọc My 

   
        

Người lính biển. Tranh chất liệu tổng hợp của Trịnh Bá Quát 

   
        

Khoảnh khắc. Tranh sơn dầu của Phạm Tuấn Minh


        
        

Bình yên. Tranh sơn dầu của Hà Khanh


        

Biển đảo quê hương. Tranh sơn dầu của Bùi Trung Hà 

   
    

Vì sự bình yên biển đảo. Tranh acrylic của Phạm Đắc Hiển

   
    
          

Được mùa cá biển. Tranh sơn dầu của Nguyễn Thế Tuấn


        
                

Tuần tra. Tranh sơn dầu của Chu Thảo 

       
                

Phong cảnh Cao Bằng. Tranh sơn mài của Phạm Chính Trung        

                

Ký ức vùng cao. Tranh bột màu của Khánh Châm

        
                

Kéo lưới. Tranh sơn mài của Nguyễn Thị Thu    

    
         
          

Bình yên 2. Tranh sơn dầu của Hà Khanh


 
    

Lá cờ. Tranh sơn dầu của hoạ sỹ Thu Thuỷ 


   
    
                  

Đây là tác phẩm vẽ Lá cờ Tổ quốc bằng gốm ở Trường Sa do chính nữ họa sĩ thực hiện 


                
          

Nguồn internet

Chủ Nhật, 7 tháng 5, 2017

Cựu Tổng thống Bush mở triển lãm tranh về các cựu chiến binh Mỹ


66 tranh chân dung và 4 bức panô về các cựu binh Mỹ trong chiến tranh do chính tay cựu Tổng thống George Bush vẽ được triển lãm tại phòng Thư viện của cựu Tổng...   

   Cựu Tổng thống Bush mở triển lãm tranh về các cựu chiến binh Mỹ - ảnh 1

Cựu tổng thống George W. Bush và bản sao cuốn sách "Chân dung của lòng dũng cảm" tại buổi họp báo ở Dallas ngày 28/2. (Nguồn: AFP/Getty Images)   
 
    Cựu Tổng thống Mỹ George W. Bush sẽ tổ chức triển lãm các tác phẩm sơn dầu của mình tại phòng Thư viện của cựu tổng thống tại thành phố Dallas, bang Texas.

   
    Bộ sưu tập nói trên sau đó sẽ được trưng bày tại Trung tâm Tổng thống đến tận ngày 1/10, gồm 66 bức chân dung và 4 bức panô về các cựu binh Mỹ trong chiến tranh. 

   
    Theo tác giả, ông vẽ tranh để bày tỏ lòng kính trọng đối với gần 100 quân nhân bị thương hoặc bị chấn thương trong cuộc chiến - những nhân vật mà ông đã có dịp tiếp xúc với tư cách cá nhân kể từ khi kết thúc nhiệm kỳ và rời khỏi Nhà Trắng năm 2009. 

   
    Là vị Tổng thống thứ 43 của nước Mỹ, cựu Tổng thống Bush cũng là Tổng Tư lệnh lực lượng quân đội Mỹ. Ông đã phát động cuộc chiến tại Iraq và Afganistan sau khi nước Mỹ bị Tấn công khủng bố vào ngày 11/9/2001. 

   
    Trước đó, ngày 28/2, ông Bush đã phát hành cuốn sách với tựa đề "Chân dung của những tấm lòng quả cảm: Sự kính trọng của một vị Tổng Tư lệnh đối với các chiến binh Mỹ." Trong cuốn sách có cả chân dung và những câu chuyện đời tư của các cựu chiến binh. 

   
    Cựu Tổng thống Bush mở triển lãm tranh về các cựu chiến binh Mỹ - ảnh 2

(Nguồn: bushcenter.org)    

                   
    Ông Bush cho biết thông qua cuốn sách và những bức chân dung, ông muốn làm nổi bật cuộc đấu tranh của các cựu chiến binh với những vết thương cũng như cuộc sống của những con người này khi họ giải ngũ. 

   
    Những câu chuyện xoay quanh tấm lòng quả cảm, những vết thương, sự phục hồi và tấm lòng sẵn sàng giúp đỡ người khác của các cựu chiến binh cũng được ông đưa vào quyển sách. Bên cạnh đó, ông cũng cho biết câu chuyện tại diễn đàn ngày 1/3 tại thư viện Tổng thống Reagan ở gần thành phố Los Angeles cũng là một yếu tố thôi thúc ông ra sách. 

   
    Chủ nhân thứ 43 của Nhà Trắng nhấn mạnh những vết thương không thể nhìn thấy, những vết thương ở trong lòng, trong tâm chí của mỗi một cựu chiến binh mới chính là mối quan tâm lớn nhất của ông. 

   
    Ngay khi vừa lên kệ, sách của ông Bush đã lọt vào danh sách sách bán chạy nhất của Amazon và ông có kế hoạch chuyển phần lớn số tiền thu được từ việc bán sách cho Trung tâm hỗ trợ cựu chiến binh của ông. Và những bức tranh được bày trong triển lãm không bán nhưng sẽ là tài sản của Trung tâm. 

   
    Ông Bush bắt đầu công việc vẽ tranh sơn mài từ năm 2012./.