Thứ Năm, 27 tháng 4, 2017

Họa sĩ Pháp giới thiệu tác phẩm được thực hiện tại VN những năm 1980


Trong khoảng thời gian 1987 - 1988 ở VN, Jean-Charles Sarrazin đã có dịp gặp gỡ nhiều họa sĩ tranh sơn mài nổi tiếng VN như Bùi Xuân Phái, Bửu Chỉ... Khi trở về Pháp, ông tiếp tục tham gia vào các chương trình hợp tác mỹ thuật giữa các trường đại học mỹ thuật ở Paris và Hà Nội.

Jean-Charles Sarrazin hiện là tác giả, họa sĩ minh họa của Nhà xuất bản (NXB) L'École des Loisirs. Tác phẩm mới nhất của ông lấy cảm hứng từ một câu chuyện cổ tích VN.

 30 năm sau kể từ lần đầu tiên đến VN, Jean-Charles Sarrazin trở lại giới thiệu tới công chúng những tranh vẽ và ảnh chụp thực hiện trong hai năm 1987 - 1988 ở VN.

 Triển lãm Jean - Charles Sarrazin - Tác giả, họa sĩ giữa hai nền văn hóa Pháp - Việt diễn ra từ ngày 6 - 15.5 tại Trung tâm văn hóa Pháp (Hà Nội). 

Cũng tại đây, vào 18 giờ ngày 6.5 diễn ra buổi tọa đàm nhân dịp 3 cuốn sách tranh Vì con yêu mẹ, Hạt mầm tình yêu và Cái gì đây? của Jean-Charles Sarrazin vừa được NXB Nhã Nam phát hành.
Nguồn: Ngọc An

Thứ Ba, 25 tháng 4, 2017

Chỉ đen và trắng


TTCT - Từng tốt nghiệp khoa lụa Trường ĐH Mỹ thuật TP.HCM, Nguyễn Quang Sơn đến với chất liệu sơn mài từ gốc gác của anh: xuất thân từ Tương Bình Hiệp, làng sơn mài lâu đời nổi tiếng đất Thủ Dầu Một, Bình Dương.

  ​Chỉ đen và trắng

Họa sĩ Nguyễn Quang Sơn (sinh năm 1971) 
 
​Chỉ đen và trắng

Chuyển động
Sinh ra và lớn lên trong gia đình làm tranh sơn mài, Nguyễn Quang Sơn cho biết anh đến trường học vẽ là ở kỹ thuật. Riêng cái tên Sơn có lẽ cũng là một báo hiệu cho cuộc đời anh gắn liền với sơn mài rồi.

Sơn chịu ảnh hưởng bởi kỹ thuật sơn mài truyền thống của Bình Dương, biểu hiện rõ nhất là ở chất liệu vỏ ốc bào ngư được cẩn trên tranh của anh. Ở sơn mài hiện đại, ngoài các màu cơ bản như son, then, vàng, bạc, cánh gián... thì màu trắng thường được tạo bằng lối cẩn vỏ trứng.

Tuy nhiên, Sơn chọn cách tạo màu trắng bằng cẩn vỏ ốc, cách làm của sơn mài truyền thống Bình Dương (ta có thể bắt gặp các câu đối, hoành phi... được cẩn ốc, xà cừ). Nhược điểm của cách cẩn vỏ ốc này là sau một thời gian vỏ ốc bị bong, rớt.

Sơn tiết lộ những vỏ ốc được gắn bằng keo trên hàng mỹ nghệ có thể bị hư tróc, trong khi tranh của anh được xử lý bằng chất liệu sơn hoàn toàn nên không e ngại điều xảy ra.

Những vỏ ốc tạo màu trắng cùng với màu then (đen) truyền thống là niềm cảm hứng chính cho Nguyễn Quang Sơn tạo ra loạt tranh cho triển lãm Đen và trắng (*). Điều làm Sơn thích thú là những bố cục và sự chuyển động.

Sơn cho biết: Chuyển động có nhiều dạng: chuyển động dích dắc, chuyển động theo sơ đồ hình cos, hình sin... Chính những chuyển động đó cùng với bố cục và sự hứng thú của tôi làm nên ý tưởng để ra đời loạt tranh này.

  ​Chỉ đen và trắng

Đất

  ​Chỉ đen và trắng

Nước

Có thể thấy những sáng tác của Nguyễn Quang Sơn là tranh trừu tượng: Gió, Lửa, Đất, Nước, Sóng, Vũ trụ, Chuyển động... được Sơn vẽ dựa trên những chuyển động. Chuyển động của không khí, của nước, của năng lượng, của ánh sáng... Chính những chuyển động đó tạo nên bố cục của những bức tranh.

Cách vẽ này không mới, có thể bắt gặp ở sáng tác của những họa sĩ đương đại. Nhưng điều lý thú là những chuyển động, bố cục đó được thể hiện bằng chất liệu sơn mài, bằng hai màu cơ bản là đen và trắng. Đó cũng chính là sự tìm kiếm của Nguyễn Quang Sơn.

Những vỏ ốc trắng, li ti tạo nên ngàn vạn những cơn lốc bụi cuốn vào thiên hà hay lấp lánh như ngàn vạn tinh tú trên biển đêm, có lúc bùng nổ như muôn ngàn ánh sáng hiện lên trên nền trời.

Bên cạnh màu đen tuyền của sơn làm nền tạo nên vẻ sâu thẳm, bí ẩn của trời đêm, của lòng đất, của vũ trụ..., những bức tranh đẹp nhất của Nguyễn Quang Sơn là những bức quên đi hình khối thật, để chạm vào những chuyển động vô hình của ánh sáng, không khí, vũ trụ... Nó cuốn hút và khơi gợi trí tưởng tượng người xem, đồng thời đề cao chiều sâu, sự tinh tế.

Liệu chất liệu sơn mài có theo kịp những sáng tác đương đại vốn phong phú và bùng nổ trong chất liệu không? Để giải đáp câu hỏi này, Nguyễn Quang Sơn thổ lộ: Đặt câu hỏi đó với tôi hơi... xa quá! Tôi chỉ thấy chất liệu sơn mài gần gũi, dễ bộc lộ những suy nghĩ của bản thân.

tranh sơn mài có những thế mạnh khác nhau, tùy mỗi thời điểm mà tôi đưa những thế mạnh đó vào sáng tác của mình. Vào lúc này tôi cảm thấy bị cuốn hút bởi màu trắng lấp lánh của vỏ ốc, màu đen tuyền của sơn.

Nguồn internet.

Thứ Hai, 24 tháng 4, 2017

Gìn giữ , phát huy nghệ thuật sơn mài

Mỗi khi bàn về vấn đề bản sắc dân tộc, chúng ta thường nhận thấy tranh sơn mài Việt Nam là loại hình nghệ thuật mang bản sắc văn hóa dân tộc độc đáo. Đi từ nghề sơn truyền thống mỹ nghệ rồi phát triển thành nghệ thuật sơn mài, đó là nhờ vào sự phát huy, sáng tạo và gìn giữ của các thế hệ thày và trò Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Trải qua những chặng đường phát triển hơn 80 năm, nghệ thuật sơn mài trở thành chất liệu tạo hình độc lập, cùng với các chất liệu khác như sơn dầu, thuốc nước, bột màu... Chất liệu sơn mài đã tạo ra sự đa dạng và phong phú cho nền mỹ thuật đương đại Việt Nam và thế giới. Trong tình hình hiện nay, trước sự ảnh hưởng, giao thoa của các nền văn hóa cùng sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, tranh sơn mài Việt Nam đang cần có sự thay đổi về đề tài, nội dung cũng như hình thức thể hiện nhưng vẫn giữ được đặc trưng của chất liệu truyền thống.
Sơn mài là chất liệu khá bền chắc, tranh giữ được lâu. Sơn mài dùng những màu truyền thống như: son, then, vàng, bạc, quỳ... nên bản thân phát huy được thói quen thẩm mỹ thị giác của người Việt, dễ đi tới những yếu tố dân tộc, dù có làm theo phong cách hiện đại thì màu sắc trong tranh sơn mài vẫn gợi cái ấm cúng, khỏe khoắn, lành mạnh. Ngay từ những năm đầu thành lập Trường Mỹ thuật Đông Dương (1925) đến sau Cách mạng tháng Tám (1945) các họa sĩ Việt Nam như Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Tư Nghiêm, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Sáng... đã có những tác phẩm sơn mài được sáng tác theo kỹ thuật truyền thống, mang giá trị nghệ thuật cao và được trưng bày tại các triển lãm quốc tế: năm 1931 (Pháp), năm 1934 (Ý), năm 1935 (Bỉ), năm 1937 (Mỹ) và năm 1958 tại Liên Xô, Trung Quốc, Tiệp Khắc, Hungary... Tranh sơn mài Việt Nam nhận được sự trân trọng của bạn bè quốc tế yêu nghệ thuật. Từ những sự kiện triển lãm đó đã đánh dấu sơn mài Việt Nam là chất liệu cổ truyền mang tính dân tộc, có khả năng diễn tả đời sống hiện tại của một xã hội đầy biến động với các thể loại phong cảnh, chân dung, tĩnh vật, sinh hoạt, các đề tài về chiến tranh cách mạng, đề tài công nghiệp, nông nghiệp. Ở từng thời kỳ chất liệu sơn mài đã có những nghiên cứu đổi thay về hình thức, bảng màu, bút pháp nhưng nó vẫn mang giá trị dân tộc rất lớn. Vì vậy tranh sơn mài Việt Nam được bạn bè thế giới tôn vinh là quốc họa Việt Nam.
Tranh sơn mài Việt Nam hiện đại được ghi dấu bằng những cuộc triển lãm như: triển lãm mỹ thuật các nước ASEAN, triển lãm mỹ thuật toàn quốc định kỳ 5 năm một lần, triển lãm chuyên đề về tranh sơn mài do Bộ VHTTDL tổ chức.
Năm 2006, triển lãm chuyên đề tranh sơn mài được tổ chức nhằm chào mừng Hội nghị cấp cao APEC tại Hà Nội. Triển lãm giới thiệu 96 tác phẩm của 81 tác giả gồm nhiều thế hệ họa sĩ từ khi mới thành lập Trường Cao Đẳng Mỹ thuật Đông Dương (1925) đến nay. Qua triển lãm, người xem thấy được nhiều thế hệ họa sĩ Việt Nam gần một thế kỷ qua đã tiếp thu, sáng tạo không ngừng để sơn mài Việt Nam trở thành một chất liệu hội họa độc đáo. Triển lãm định kỳ mỹ thuật toàn quốc năm 1995 có 159 tác phẩm sơn mài / 806 tác phẩm hội họa và đồ họa được trưng bày. Tại triển lãm mỹ thuật toàn quốc năm 2001-2005 có 168 tác phẩm sơn mài / 540 tác phẩm hội họa và đồ họa trưng bày. Triển lãm mỹ thuật toàn quốc năm 2006-2010 có 169 tác phẩm sơn mài/ 836 tác phẩm của cả triển lãm được trưng bày. Như vậy tranhh sơn mài vẫn luôn phát triển không những về chất và lượng mà cả về kích thước. Hiện tại, các họa sĩ vẽ tranh sơn mài còn khiêm tốn hơn các chất liệu khác, nhưng các tác phẩm của họ bộc lộ nhiều tìm tòi về kỹ thuật và kỹ năng vẽ sơn mài làm phong phú thêm cho ngôn ngữ tạo hình. Các chuyên ngành đào tạo sáng tác tranh sơn mài vẫn tập trung ở một số trường như: Đại học Mỹ thuật Việt Nam, Đại học Mỹ thuật Công nghiệp, Đại học Nghệ thuật Huế, Đại học Mỹ thuật TP.HCM. Ví dụ, tại Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam có chương trình đào tạo theo hướng mở. Đó là trong quá trình học những năm đầu, sinh viên được tìm hiểu, nghiên cứu các chất liệu, tạo điều kiện, cơ hội cho họ theo đuổi sở thích và khả năng sáng tạo. Những năm cuối, họ được đăng ký thể hiện bài tốt nghiệp bằng chất liệu mình yêu thích: sơn mài, sơn dầu, lụa...
Tại Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam cũng đã có rất nhiều sinh viên từ các nước như: Đức, Phần Lan, Thụy Điển, Trung Quốc, Nhật Bản... sang Việt Nam tìm hiểu, thực hành, sáng tạo chất liệu sơn mài truyền thống của Việt Nam. Qua đó chúng ta có thể khẳng định tranh sơn mài Việt Nam được rất nhiều công chúng yêu mỹ thuật trên thế giới trân trọng đón nhận và ngưỡng mộ. Tuy vậy, việc gìn giữ và phát triển nghệ thuật sơn mài là một thách thức đối với các họa sĩ vẽ sơn mài và các nhà chức trách. Để nghệ thuật sơn mài có thể phát triển ngày một tốt hơn cả về chất và lượng, Bộ VHTTDL nên kết hợp với Hội Mỹ thuật Việt Nam duy trì và tổ chức thêm những triển lãm thường niên và định kỳ về tranh sơn mài, không chỉ ở trong nước mà cả quy mô mang tầm quốc tế, giới thiệu, quảng bá, động viên, khích lệ các họa sĩ đam mê chất liệu được coi là kỹ tính và khó chiều này. Việc gìn giữ, phát huy còn rất cần đến những mô hình nghiên cứu chương trình đào tạo và hình thành tư duy từ lứa tuổi sinh viên, họa sĩ trẻ vẽ tranh sơn mài. Điều này cũng cần được kết hợp tốt với việc xây dựng, khôi phục các làng nghề trồng sơn, dát quỳ... nhằm sớm tạo ra tính liên hoàn hơn nữa ở vùng sản xuất nguyên liệu, chất liệu truyền thống nghề sơn. Quan trọng hơn, cần sớm có kế hoạch đầu tư nghiên cứu, xây dựng đề án bảo tồn, phát triển nghệ thuật tranh sơn mài, tạo mô hình khép kín trong mối tương quan chặt chẽ giữa làng nghề sản xuất chất liệu sơn mài với các họa sĩ sáng tác và thị trường.
Như vậy nghệ thuật sơn mài đã và sẽ vẫn là nghệ thuật độc đáo và thế mạnh của nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Thực ra, sơn mài chỉ là một trong những chất liệu sáng tác của các họa sĩ, chúng ta không sợ là người Trung Quốc hay Nhật Bản sẽ lấn át chúng ta về sơn mài. Nghệ thuật chỉ thành công khi sự khác biệt mang dấu ấn cá nhân nghệ sĩ và hơi thở thời đại mà các tác phẩm đem lại .